Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Hình Tượng Chiếc Thuyền Ngoài Xa (Dàn Ý + 5 Mẫu) Vẻ Đẹp Của Chiếc Thuyền Ngoài Xa được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Vxsc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Dàn ý phân tích hình ảnh Chiếc thuyền ngoài xaa) Mở bài
– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại, sáng tác trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
– Khái quát hình tượng chiếc thuyền ngoài xa: Bên cạnh hình tượng người đàn bà hay người nghệ sĩ Phùng thì chúng ta đặc biệt ấn tượng với hình tượng chiếc thuyền ngoài xa, qua đó nói lên những dụng ý nghệ thuật của tác giả.
b) Thân bài
– Hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc họa rất ấn tượng:
+ “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”.
– “Chiếc thuyền ngoài xa” hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng
Với những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục… của bức ảnh, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác “trở nên bối rối”, cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và “khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”… như cái cảm giác mà “tôi” đã từng có.
Tuy nhiên, dù có là người sành nghệ thuật đến đâu, cũng không ai khám phá ra được : số phận đầy trớ trêu, nghịch lý của những con người, những cuộc đời, nhưng đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc thuyền ấy.
Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp ảnh nhận ra khi “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng”, tức là ở một khoảng cách gần, rất gần!
– Chi tiết chiếc thuyền ngoài xa dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: Chiếc – thuyền – ngoài – xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người.
– “Chiếc thuyền ngoài xa” là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn:
+ Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp rằng: Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thật. Con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
c) Kết bài
Cảm nhận của em về hình tượng Chiếc thuyền ngoài xa
Thông điệp phát đi từ hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” trong truyện ngắn chính là sự bổ sung hết sức thuyết phục cho quan niệm đó.
Vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 1Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thường không trực tiếp phát biểu ra những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ, cách nhìn về cuộc đời qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa. Và có lẽ, hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” trong truyện ngắn cùng tên của ông cũng như vậy.
Tên truyện ngắn là “Chiếc thuyền ngoài xa”, và quả thật, hình ảnh chiếc thuyền gần như xuất hiện xuyên suốt trong câu chuyện mà nhà văn mang đến cho người đọc. Bắt đầu từ yêu cầu của người trưởng phòng “lắm sáng kiến” đối với nhân vật xưng “tôi” – người nghệ sĩ nhiếp ảnh: “…Chúng ta sẽ mang đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập về thuyền và biển, không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Tiếp đó là hình ảnh chiếc thuyền “mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái”, rồi tiếp theo nữa là “một nhóm chừng dăm bảy chiếc thuyền vó vừa tắt đèn” và cuối cùng tập trung vào “một chiếc thuyền lướt vó …đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”. Đây chính là “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc họa rất ấn tượng: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh đó mang một “vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích” – vẻ đẹp của “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh họa thời cổ”, và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh mà nó “được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”.
– Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” giờ đã hóa thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục…và khi thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác “trở nên bối rối”, cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và “khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”…như cái cảm giác mà “tôi” đã từng có.
Song, dù có là người sành nghệ thuật đến đâu, cũng không ai khám phá ra được:Đó là những con người, những cuộc đời, những số phận đầy trớ trêu, nghịch lý đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc thuyền ấy. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách tự nguyện những trận đòn thịnh nộ của anh chồng với “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy (với trên dưới mười con người) cần có ông ta chèo chống lúc phong ba; Một đứa con trai yêu mẹ đến nỗi định giết cả bố mình… Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp ảnh nhận ra khi “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng”, tức là ở một khoảng cách gần, rất gần!
Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: Chiếc – thuyền – ngoài – xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người.
Vậy nên, có thể nói hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
Chính vì thế, cho dù chỉ là một bức ảnh “hoàn toàn thế giới tĩnh vật”(hay nói đúng hơn là vẫn có con người nhưng đó chỉ là “những bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng”) nhưng nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh của chúng ta – cũng là người đã trực tiếp nhận ra những số phận ẩn tàng bên trong nó – bao giờ cũng như thấy “một người đàn bà bước ra ” sau mỗi lần suy tư, ngắm nhìn thành quả nghệ thuật mà mình tạo ra nhờ cái giây phút “trời cho” ấy.
Trước Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nam Cao từng quan niệm “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối… Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng). Là người đi sau, Nguyễn Minh Châu không lặp lại quan niệm đó, vì hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” mang vẻ đẹp nghệ thuật thực sự chứ không hề là “ánh trăng lừa dối”. Điều mà nhà văn muốn người đọc lưu tâm là cần phải có cái nhìn đa chiều, phổ quát mới có thể cảm nhận hết cái gai góc, phức tạp của cuộc đời này, bởi như ông đã nói “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”.
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng từng phát biểu “Sáng tác văn học là quá trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn con người”. Thông điệp phát đi từ hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” trong truyện ngắn cùng tên của ông chính là sự bổ sung hết sức thuyết phục cho quan niệm đó.
Hình ảnh Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 2Một tác phẩm hay hấp dẫn và thành công không chỉ ở nội dung và hình thức mà còn là ở hình tượng của tác phẩm đó. Hình tượng có thể là con người và cũng có thể là vật, miễn sao sự vật con người ấy nói lên được ý nghĩa mà nhà văn muốn truyền tải tới bạn đọc. Nếu như Nguyễn Tuân lấy hình tượng con sông Đà để giới thiệu vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của nó thì Nguyễn Minh Châu lấy hình tượng chiếc thuyền ngoài xa để nói lên những dụng ý nghệ thuật của mình. Vậy dụng ý nghệ thuật của nhà văn qua hình tượng ấy là gì?.
Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu sáng tác trong thời kì đổi mới của đất nước. Khi ấy xã hội đang trên đà phát triển, kinh tế phát triển theo xu hướng hàng hóa nhiều thành phần và hàn gắn vết thương chiến tranh đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước có nhiều cái mới tốt đẹp văn minh hơn nhưng đồng thời vẫn có những mảng tối mà nhà nước không thể đi sâu hết được. Cho nên với ý thức của một người nghệ sĩ Nguyễn Minh Châu không hổ danh là người mở đường tinh anh khi sáng tác thành công truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Trong truyện ngắn ấy ngoài những hình tượng người đàn bà hay người nghệ sĩ Phùng thì chúng ta đặc biệt ấn tượng với hình tượng chiếc thuyền ngoài xa.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã là một ẩn ý nghệ thuật về hình tượng này. Chiếc thuyền ngoài xa theo nghĩa tả thực thì nó chính là không gian sinh sống của những cặp vợ chồng làng chài. Nó là những chiếc thuyền mưu sinh của con người đánh cá. Nói một cách khác đi thì đó chính là nhà của họ. Thế nhưng nếu như chỉ hiểu theo nghĩa tả thực kia thì chẳng có gì gọi là ẩn ý ở đây cả.
Chẳng là nghệ sĩ Phùng là một nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp trong một chuyến công tác chụp cảnh thuyền và biển cho bộ lịch năm ấy nghệ sĩ Phùng đã đến vùng biển để chụp bức ảnh chiếc thuyền và biển trong buổi sớm tinh sương. Và đúng như mong muốn Phùng bắt gặp cảnh tượng chiếc thuyền in những nét lòa nhòa trong làn sương. Đó thực sự là một cảnh đắt trời cho. Có thể nói hình tượng chiếc thuyền này chính là một hình ảnh nghệ thuật. Một chiếc thuyền với mũi thuyền in những nét lòa nhòa trong làn sương sớm. Đây quả thật là một bức tranh mực tàu của họa sĩ thời cổ để lại. Trước mắt chúng ta hiện lên một bức tranh đen trắng, chiếc thuyền nhỏ kia mang màu đen in hình mình lên màu trắng là làn sương sớm của buổi sáng trên biển. Sự kết hợp sáng tối giữa hai hình ảnh, hai màu sắc khiến cho thi nhãn của ta như được đắm chìm, bị thu hút bởi sự hài hòa dịu mắt ấy. Những mắt lưới đánh cá cũng được xuất hiện, với cuộc sống thường nhật thì nó chỉ để bắt cá mà đến với nghệ thuật nó lại trở thành một hình ảnh thật đẹp. Hình ảnh những con người ngồi trên thuyền thì im phăng phắc. Cảnh đẹp đó khiến cho người nghệ sĩ như bót thắp tim lại vì sung sướng. Nó chỉ là một cảnh tượng đời thường thế khám phá nghệ thuật của nó lại trở nên đẹp đến vậy. Người nghệ sĩ nhận ra nghệ thuật chính là đạo đức.
Như vậy hình tượng chiếc thuyền ngoài xa là một hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi. Nhà văn như khẳng định nguồn gốc của nghệ thuật chính là sinh ra từ cuộc sống này. Những điều bình dị hay những điều lớn lao của cuộc sống đều có thể trở thành nghệ thuật. Hình tượng chiếc thuyền ngoài xa mang nét nghệ thuật đẹp đến nổi người nghệ sĩ không thể thốt nên thành lời mà như có ai bóp thắt tim mình lại.
Đó là một nét của hình tượng chiếc thuyền ngoài xa, nếu chỉ dừng lại ở đó thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhà văn Nguyễn Minh Châu tiếp tục cho chúng ta khám phá nghịch lý của cuộc đời qua hình tượng chiếc thuyền ấy.
Sau một bức tranh tuyệt mĩ ấy nơi có những con người chỉ ngồi im phăng phắc êm đềm hiền lành thế. Vậy mà khi chiếc thuyền ấy lại mang cả một sự thật ẩn dấu đằng sau. Đó là người chồng đánh người vợ của mình thậm tệ. Anh ta lấy một chiếc thắt lưng mỹ ngụy của mình để dáng đòn liên tục vào người vợ không hề thương tiếc hay đau xót gì. Bất chợt thằng con trai ở đâu lao tới, nó cầm một con dao và bất chấp chạy tới chỗ ông bố để đâm ông ta. Mũi dao ấy có thể lấy mạng ông bố. Người chồng ấy phũ phàng tát cho thằng con một cái ngã lộn nhào và sau đó trở về thuyền để mặc cho hai mẹ con ở lại trên bờ. Vậy là hình tượng chiếc thuyền kia đâu còn là hình ảnh nghệ thuật nữa nó lại quay trở lại là hình ảnh của cuộc sống hiện thực của những người dân chài nơi đây. Vẫn là con thuyền mưu sinh ngày đêm lênh đênh trên biển, vẫn là con thuyền với những con người ngồi im phắc thế nhưng đến khi vào bờ lại là một trận đánh tơi bời. Đến đây thì ai nghĩ rằng chiếc thuyền kia chỉ đẹp như thế.
Hình tượng của chiếc thuyền ngoài xa là như thế và cho đến bây giờ hễ cứ nói đến hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa là nói đến sự hàm ẩn giữa nghệ thuật và cuộc đời. nghê thuật được sinh ra từ cuộc đời nhưng đồng thời nghệ thuật phải gắn liền với cuộc đời. Con người chúng ta khi nhìn bất cứ một sự việc nào là nghệ thuật hay không nghệ thuật thì cũng nên nhìn nhận một cách đa chiều. Bởi vì cuộc đời này không bằng phẳng một màu, trong một sự vật có thể chứa đựng nhiều mặt khác nhau. Dòng đời thì đa đoan phức tạp. Vì thế chúng ta nên nhìn nhận một cách thấu hiểu nhất chứ không nên phiếm diện.
Có thể nói nhà văn Nguyễn Minh Châu đã kế thừa quan niệm của nhà văn Nam cao “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối… Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than”. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu vẫn có cái mới lạ ở chỗ hình tượng chiếc thuyền kia quả thật là một nghệ thuật đó chứ đâu có phải lừa dối đâu. Cái mà nhà văn muốn thể hiện đó chính là mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, cái nhìn đa chiều vào sự vật hiện tượng. Ngay chính bản thân hiện tượng cũng có những nghịch lý mà ta phải nhìn nhận.
Hình ảnh Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 3Nguyễn Minh Châu (1930-1989), là một cây bút sử thi lãng mạn, trước năm 1975 các tác phẩm của ông chủ yếu viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức và triết lí chân thực. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy, nhắc đến tác phẩm người đọc sẽ không thể quên hình tượng chiếc thuyền. Một hình tượng xuyên suốt cả tác phẩm.
Tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, thơ mộng, đẹp mê lòng người. Bức tranh ấy quyến rũ kỳ lạ đối với những người biết yêu và thưởng thức cái đẹp như Phùng. Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa.
Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc họa rất ấn tượng: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh đó mang một “vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích” vẻ đẹp của “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh họa thời cổ”, và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh mà nó “được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đã mang lại khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn Phùng, anh đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào trong ống kính của mình. Tuy nhiên hiện thực lại không hề tươi đẹp đến như vậy.
Đằng sau bức tranh ấy là những con người, những cuộc đời, những số phận đầy trớ trêu. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách tự nguyện những trận đòn thịnh nộ của anh chồng với “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy (với trên dưới mười con người) cần có ông ta chèo chống lúc phong ba. Một đứa con trai yêu mẹ đến nỗi định giết cả bố mình… Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp ảnh nhận ra khi “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng”, tức là ở một khoảng cách gần, rất gần. Người chồng đánh người vợ của mình thậm tệ. Anh ta lấy một chiếc thắt lưng Mĩ ngụy của mình để dáng đòn liên tục vào người vợ không hề thương tiếc hay đau xót gì. Bất chợt thằng con trai ở đâu lao tới, nó cầm một con dao và bất chấp chạy tới chỗ ông bố để đâm ông ta. Mũi dao ấy có thể lấy mạng ông bố. Người chồng ấy phũ phàng tát cho thằng con một cái ngã lộn nhào và sau đó trở về thuyền để mặc cho hai mẹ con ở lại trên bờ. Vậy là hình tượng chiếc thuyền kia đâu còn là hình ảnh nghệ thuật nữa nó lại quay trở lại là hình ảnh của cuộc sống hiện thực của những người dân chài nơi đây. Vẫn là con thuyền mưu sinh ngày đêm lênh đênh trên biển, vẫn là con thuyền với những con người ngồi im phắc thế nhưng đến khi vào bờ lại là một trận đánh tơi bời. Đến đây thì ai nghĩ rằng chiếc thuyền kia chỉ đẹp như thế.
Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn. Chiếc thuyền ngoài xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người. Chính vì thế, cho dù chỉ là một bức ảnh hoàn toàn thế giới tĩnh vật nhưng nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh của chúng ta cũng là người đã trực tiếp nhận ra những số phận khuất lấp bên trong nó, bao giờ cũng như thấy “một người đàn bà bước ra ” sau mỗi lần suy tư, ngắm nhìn thành quả nghệ thuật mà mình tạo ra nhờ cái giây phút “trời cho” ấy.
Với hình tượng chiếc thuyền ngoài xa, một chiếc thuyền đẹp hoàn mỹ, nhưng đằng sau đó lại là một hiện thực khắc nghiệt. Tác giả đã cho người đọc thấy được một triết lí đó là cần phải có cái nhìn đa chiều về sự vật, hiện tượng.
Hình ảnh Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 4Nam Cao có một quan điểm nghệ thuật rất hay: “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”, thấy được những quan niệm rất sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu đã nắm bắt trọn vẹn được quan điểm ấy thông qua hình tượng chiếc thuyền với vẻ đẹp nghệ thuật tinh tế vừa phản ánh cuộc sống đời thường nơi làng chài ven biển.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, là một trong những cây bút tiên phong của thời kỳ văn học đổi mới. Ông có phong cách viết truyện mang đậm tính tự sự và triết lý sâu sắc. Một số tác phẩm tiêu biểu như: Dấu chân người lính, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được nhà văn Nguyễn Minh Châu viết trong thời kỳ đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, đang trong thời kỳ đổi mới
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa hình ảnh chiếc thuyền đi xuyên suốt trong tác phẩm, chiếc thuyền có ý nghĩa biểu tượng to lớn, tượng trưng cho vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên đầy thi vị, lãng mạn, gắn với cuộc sống sinh hoạt thường ngày của người dân làng chài. Chiếc thuyền ngoài xa là hình ảnh ẩn dụ đầy nghệ thuật về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, chiếc thuyền ấy chính là ngôi nhà, là nơi ăn chốn ở của một gia đình người dân chài, với một cuộc sống đầy cơ cực, vất vả, gia đình thì lại đông con, ăn không đủ no mặc không đủ ấm. Cuộc sống túng quẫn, vì đồng tiền bát gạo chính là nguyên nhân khiến người chồng trở nên cục súc, vũ phu và người vợ trở thành nạn nhân của những trận đòn long trời lở đất. Những cảnh tượng, thân phận con người cùng khổ ấy nếu ta chỉ đứng phía xa mà trông vào thì sẽ chẳng bao giờ thấy được, bởi tất cả đã bị che lấp bằng vẻ đẹp thơ mộng của con thuyền đánh cá nằm xa xa giữa biển khơi trong nắng mai hồng và lòe nhòe sương sớm.
Chiếc thuyền ngoài xa hiện lên trước mắt người nghệ sĩ với một vẻ đẹp cô đơn, tịch mịch, đó là sự đơn độc của một con thuyền đẹp đẽ đầy tính nghệ thuật trên đại dương mênh mông. Đó cũng chính là hình ảnh biểu hiện cho sự đơn độc của mỗi con người trong cuộc đời, những thân phận trôi nổi, lênh đênh như con thuyền kia, những nỗi đau họ phải cam chịu mà chẳng ai hay biết. Sự xa cách, cô đơn, không có sự chia sẻ lẫn nhau là nguyên nhân đưa tới sự lẩn quẩn, bế tắc trong cuộc sống của những con người khốn khổ. Phùng cho rằng anh đã chụp được cảnh “đắt” trời cho – chiếc thuyền đang tiến vào bờ trong sương sớm, một vẻ đẹp tuy đơn giản nhưng toàn bích, là chân lý của sự toàn diện. Nhưng khi chiếc thuyền tiến thẳng vào bờ, những con người trên thuyền bước xuống, một cặp vợ chồng mang vẻ lam lũ, thô kệch, xấu xí trái ngược hẳn với vẻ đẹp tuyệt diệu của con thuyền ban nãy, lại chứng kiến cảnh người đàn ông giở thói vũ phu với vợ, anh đã hết sức kinh ngạc vứt chiếc máy ảnh xuống đất, toan lao vào ngăn cản. Lúc này Phùng mới giật mình, vỡ mộng nhận ra rằng vẻ đẹp ngoài xa kia cũng ẩn trong trong mình nhiều sự thật oái oăm, ngang trái, bất công, nếu không thực sự đến gần thì chẳng bao giờ anh ngộ ra được. Khoảng cách xa và gần là hai thái cực hoàn toàn khác nhau, là sự đối lập gay gắt giữa sâu thẳm bên trong và vẻ bề ngoài đẹp đẽ, đây chính là cách nhìn nhận đầy sâu sắc và nhân văn về cuộc đời, về con người của nhiếp ảnh gia Phùng, cũng như của tác giả Nguyễn Minh Châu. Nghệ thuật cũng vậy, nó phải được nhìn nhận một cách sâu sắc, đa chiều, nghệ thuật bước ra từ những chất liệu giản đơn trong cuộc sống, chứ không phải những thứ sáo rỗng, chủ quan, nghệ thuật không chỉ đơn giản là đẹp mà còn phải mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, gắn liền với cuộc sống, đấy mới là thứ nghệ thuật chân chính.
Advertisement
Hình tượng chiếc thuyền ngoài xa là một hình ảnh giàu sức gợi cảm có ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, từ đây Phùng có một cách nhìn nhận nghệ thuật và cuộc sống khác đầy mới lạ, cuộc đời không bao giờ là đơn giản, xuôi chèo mát mái, mà cuộc đời phức tạp lắm, con người cũng vậy có biết bao mảnh đời đa đoan trong cuộc sống trăm sự, nhiều bề, ngổn ngang này. Đồng thời cũng phản ánh những tiêu cực, hậu quả của chiến tranh trong những năm đầu đất nước giành được độc lập, trên đà đổi mới, đầy rẫy những bất công, những mảnh tối đè nặng trên lớp người dân cùng khổ, chưa tìm được hướng mới cho cuộc đời, cứ mải quẩn quanh trong bế tắc. Thể hiện tính nhân văn, lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm, luôn quan tâm, dõi theo những số phận cùng khổ trong bối cảnh đất nước thuở đầu độc lập.
Tác phẩm cho chúng ta một bài học về cách nhìn nhận cuộc sống, nhìn nhận con người, cùng với quan điểm mới về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong tác phẩm Vũ Như Tô rằng: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”, chúng ta cần phải có cái nhìn đa chiều, toàn diện sâu sắc, đồng thời phải chấp nhận cả những nghịch lý tàn nhẫn của cuộc sống nằm ẩn mình trong vẻ đẹp bề ngoài, bởi nghệ thuật là để phục vụ cuộc sống, vẻ đẹp của nghệ thuật đi ra từ những giá trị đạo đức, nhân văn chứ không phải từ cái đẹp hào nhoáng mà trống rỗng.
Phân tích hình ảnh Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 5Nam Cao có một cái nhìn rất hăng hái về nghệ thuật: “Chao ôi, nghệ thuật ko nên làm sai ánh trăng, càng ko nên làm sai ánh trăng; Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu âu sầu, thoát khỏi những kiếp người bi ai, và nhà văn ko nên ẩn mình trong nghệ thuật, nhưng nên lao động mài miệt, mở mang tâm hồn trước những xô bồ của cuộc đời “, thấy được những quan điểm quan trọng thâm thúy hơn về mối quan hệ giữa Nghệ thuật và cuộc sống Trong Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã trình bày toàn vẹn ý kiến ấy bằng bức tranh con thuyền với quang cảnh nghệ thuật tuyệt đẹp và trình bày cuộc sống đời thường ở một vùng chài ven biển.
Nguyễn Minh Châu (một930-một989), quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, là một trong những cây bút đi đầu của giai đoạn viết lại. Anh có cá tính viết đầy chất tự sự và triết lý thâm thúy. Các nhiệm vụ thông thường khác như: Những bước chân quân sự, Người nữ giới trên tàu cao tốc, Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được tác giả Nguyễn Minh Châu viết trong thời khắc tổ quốc vừa trải qua chiến tranh và đang trong giai đoạn khôi phục.
Ở tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, hình ảnh chiếc thuyền qua lại trong công tác, chiếc thuyền mang một ý nghĩa biểu trưng bự to, biểu trưng cho vẻ đẹp của hình tượng thơ, của tình yêu, gắn liền với cuộc sống sinh hoạt. làng chài. Chiếc thuyền ngoài xa là một ẩn dụ nghệ thuật nói về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật, chiếc thuyền đấy là ngôi nhà, là mái ấm gia đình hàng chài, lành lẽ, đầy thời cơ. Cuộc sống nghèo nàn, vì tiền là nguyên cớ chính khiến người chồng tàn nhẫn, bạo lực và người vợ là nạn nhân động địa kinh thiên. Những cuộc phiêu lưu đấy, thân phận của những người nghèo nàn, nếu đứng từ xa nhưng quan sát, chúng ta chẳng thể trông thấy được, bởi vì mọi thứ đều bị che giấu bởi vẻ đẹp thơ mộng của chiếc thuyền đánh cá xa xa giữa biển khơi. nắng hồng sớm mai và sương sớm.
một chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện trước mắt người nghệ sĩ vẻ đẹp thuần tuý, ấy là thực chất của một con thuyền đẹp, nghệ thuật trên biển to. Đấy cũng là hình ảnh đại diện cho nỗi lẻ loi của tư nhân trong cuộc sống, của những học giả lênh đênh, lênh đênh như con thuyền khác, nỗi đau nhưng họ vô tình phải chịu đựng. Khoảng cách, sự lẻ loi và thiếu sự sẻ chia là những nguyên cớ chính dẫn tới sự hoang mang và thất vọng trong cuộc sống của những người nghèo. Phùng tin anh nhận sự cố “đắt giá” – chiếc thuyền cập bờ biển trong sương sớm, một vẻ đẹp giản dị mà toàn vẹn, là chân lý cho tất cả. Nhưng lúc con thuyền đang tiến thẳng vào bờ thì những người trên thuyền xuống xe, cặp vợ chồng xấu xí, xấu xí, trái ngược hoàn toàn với vẻ bề thế của con thuyền ngày nay, lúc trông thấy đám người con trai bạo hành vợ mình, anh ta đã rất sốc. anh ta làm rơi máy ảnh và quyết tâm ngừng lại. Ngay khi ấy, Phùng sững sờ, tuyệt vọng và trông thấy vẻ đẹp bóng gió đấy đang ẩn chứa trong mình nhiều sự thực khó hiểu, tranh chấp, oan nghiệt nhưng nếu ko đích thực tới gần thì sẽ ko thấy. Ở một khoảng cách xa và có 2 thái cực hoàn toàn không giống nhau, sự dị biệt to giữa chiều sâu nội tâm và bề ngoài điển trai, đây chính là cách nhìn thâm thúy và nhân bản về cuộc sống và con người của thợ chụp ảnh Phùng, và tác giả Nguyễn Minh Châu. Nghệ thuật cũng vậy, nên nhìn nhận một cách thâm thúy, đa chiều, nghệ thuật khởi hành từ những điều bình dị trong cuộc sống, ko sáo rỗng, chủ quan, nghệ thuật ko chỉ đẹp nhưng còn mang ý nghĩa nhân bản thâm thúy, gắn liền với cuộc sống. nghệ thuật chân chính.
Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa là một hình ảnh gợi cảm, mang ý nghĩa biểu trưng thâm thúy, từ đây Phùng có một cách nhìn mới và khác về cuộc sống và nghệ thuật, cuộc đời ko bao giờ dễ chèo mát mái nhưng cuộc đời lắm phức tạp nên làm. con người có nhiều kiếp không giống nhau trong cuộc sống trăm bề, nhiều phía, ngổn ngang này. Cùng lúc, nó cũng chỉ ra những tệ nạn, hậu quả của chiến tranh trong những 5 đầu tổ quốc giải phóng, với nhựa sống đổi mới, đầy rẫy bất công và những mảng đen rất nặng của những người nghèo, những người chưa được khắc phục. Thể hiện con người thâm thúy và tư cách của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm luôn trằn trọc và hướng đến cái kết bi thương trong trạng thái dân tộc được giải phóng.
Qua đây cho chúng ta bài học về cách nhìn đời, nhìn người, cách nhìn mới về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong vở Vũ Như Tulokho: “Nghệ thuật ko gắn kết ở đời chỉ là những bông hoa xấu xa”, chúng ta cần có cái nhìn gắn kết, toàn cục. chúng ta đang đối đầu thâm thúy, và cùng lúc chúng ta phải chấp thuận sự gian ác. những kín đáo của cuộc sống ẩn chứa vẻ đẹp bên ngoài, bởi vì nghệ thuật là tác phẩm của cuộc sống, vẻ đẹp của nghệ thuật tới từ những nguyên lý đạo đức.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Người Đàn Ông Trong Chiếc Thuyền Ngoài Xa Dàn Ý &Amp; 5 Bài Văn Mẫu Lớp 12
Văn mẫu lớp 12: Phân tích người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu mang đến dàn ý chi tiết và 5 bài văn mẫu siêu hay. Thông qua tài liệu này giúp các bạn có thêm nhiều tư liệu học tập rèn kỹ năng viết văn ngày một hay hơn.
Nhân vật người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa là người gây ra bi kịch gia đình cho người đàn bà hàng chài nhưng đây cũng là nhân vật đáng thương để tác giả thể hiện những quan niệm, đánh giá về cuộc đời và nghệ thuật. Vậy sau đây là 5 bài phân tích hình ảnh người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi.
Dàn ý số 1
I. Mở bài
Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút đi tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, như nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi: “Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. Sự tinh anh và tài năng của Nguyễn Minh Châu được thể hiện qua quá trình tư duy nghệ thuật ở những tác phẩm: “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Bến quê”, “Bức tranh”, “Chiếc thuyền ngoài xa”…
Đặc biệt với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” viết năm 1983 được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong thời kỳ đổi mới văn học. Đọc tác phẩm, bên cạnh những nhân vật như nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà hàng chài… đã để lại trong lòng ta những ấn tượng đẹp thì phải kể đến một nhân vật nữa cũng làm ta day dứt không yên, đó là gã đàn ông hàng chài vũ phu, tàn độc.
II. Thân bài:
1. Khái quát về sự xuất hiện của nhân vật: Trong tác phẩm, người đàn ông hàng chài là nhân vật xuất hiện không nhiều trên trang văn. Hình như ông ta chỉ xuất hiện hai lần: lần thứ nhất, dưới đôi mắt của Phùng khi chứng kiến cảnh đánh vợ tàn bạo của hắn và lần thứ hai là qua lời kể của người đàn bà (vợ hắn) ở tòa án huyện mà ta biết về lai lịch và nguyên nhân của sự bạo hành kia.
2. Lai lịch của nhân vật: Trước bảy nhăm, người đàn ông này không đi lính ngụy mà trốn quân dịch cho nên cuộc sống của hắn nghèo khổ, túng quẫn và gặp người đàn bà hàng chài nên vợ nên chồng. Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao giờ đánh vợ con, không biết uống rượu, không biết hút thuốc…, đó là mẫu đàn ông lí tưởng. Nhưng nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi tâm tính của hắn, trở thành người chồng vũ phu, người đàn ông tàn độc của những vụ bạo hành tàn nhẫn của hắn đối với vợ con?
3. Qua ngoại hình, ta biết được hoàn cảnh sống của nhân vật: Chỉ bằng vài nét miêu tả ngoại hình về gã đàn ông hàng chài, khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, nhà văn đã cho ta biết được cuộc sống đói nghèo, lam lũ, chật chội quẩn quanh hằn in lên dáng vẻ khắc khổ của ông ta:
– Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền
– Mái tóc tổ quạ
– Chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn
– Hàng lông mày cháy nắng
– Hai con mắt độc dữ….
Chính hoàn cảnh sống đó đã làm cho ông ta thay đổi tâm tính trở thành kẻ vũ phu và coi cái việc đánh vợ như một sự giải tỏa nỗi ẩn ức, bế tắc trong lòng mình.
4. Lời nói và hành động bạo hành của người đàn ông hàng chài:
– Lời nói cộc cằn, hung dữ như quát đối với vợ: “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đó là lời nói của một kẻ gia trưởng tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác, cứ mở miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết…Đó đâu phải là lời của một con người với một con người mà hình như đó là âm thanh của một loài dã thú.
– Hành động đánh vợ của gã đàn ông diễn ra một cách thô bạo “lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa….chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy…quất tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hành động đánh vợ của gã đàn ông này quá tàn nhẫn, thú tính như đối với một kẻ thù của thời trung cổ…
– Đi đôi với hành động trên là những lời chửi mắng độc địa của ông ta về người vợ “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Đó là lời của kẻ thất học, vô văn hóa đang khốn cùng vì gánh nặng của vợ “mày chết đi”, vì gánh nặng của con “chúng mày chết hết đi” đè lên đôi vai, biến ông ta trở thành kẻ độc ác, ích kỉ, tàn nhẫn ngay cả đối với những người thân yêu nhất của mình.
– Sự tàn độc của gã đàn ông thuyền chài không phải thỉnh thoảng mới xảy ra mà nó diễn như cơm bữa: “ Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Hành động bạo hành của ông ta đâu phải chỉ có đối với người đàn bà khốn khổ (vợ hắn) mà còn đối với những đứa trẻ tội nghiệp (con hắn): “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Đó đâu phải là hành động của một người cha có văn hóa biết giáo dục con cái mà là hành động man rợ của một con thú không có tính người. Chính vì thế, nhà văn đã có một so sánh rất hay về gã đàn ông thuyền chài này: “nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng”.
– Đọc những trang văn của Nguyễn Minh Châu viết về người đàn ông thuyền chài, ai cũng đều căm ghét cái thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng không đơn giản, ông ta còn là một kẻ đáng thương. Tính chất lưỡng phân ở con người này không hẳn là tính cách bẩm sinh mà một phần không nhỏ là do cảnh ngộ đẩy vào. Ngay cả khi quất tới tấp cái thắt lưng có khóa sắt vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến răng ken két. Cái cách “thở hồng hộc” đúng là vũ phu rồi. Nhưng còn tiếng nghiến răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa. Tất cả biến thành phẫn nộ vì bế tắc, cùng đường, thể hiện bằng ngôn ngữ của chiếc thắt lưng da. Đánh vào lưng vợ, lão như đánh vào một cái gì đó vô hình, đánh vào cái mà vì nó mà hắn khổ.
5. Đánh giá chung về nhân vật:
– Người đàn ông thuyền chài được tác giả đặt vào trong những tình huống và góc nhìn của các nhân vật khác như Phùng, Đẩu, người đàn bà hàng chài, thằng Phác…Nhờ vậy, mà nhân vật này dù chỉ xuất hiện “thoáng qua” nhưng diện mạo, ngôn ngữ, hành động, tính cách cục cằn, tàn nhẫn của hắn được bộc lộ một cách toàn diện, rõ nét và khách quan như chính chúng ta cũng thường bắt gặp đâu đó hình ảnh này trong cuộc sống.
– Một thành công nữa của Nguyễn Minh Châu đã học tập ở nhà văn Nam Cao trong việc diễn tả những hiện tượng lưỡng tính (tính chất lưỡng phân) ở nhân vật người đàn ông thuyền chài vừa tàn nhẫn nhưng cũng vừa đau đớn, xót xa của một phận người khốn khổ. Ông ta cũng là một kẻ đáng thương!
III. Kết bài:
– Tóm lại, người đàn ông thuyền chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa đáng bị lên án bởi sự độc ác, thói vũ phu, tính ích kỉ, tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để thỏa mãn những bức dọc trong lòng. Nhưng ở anh ta cũng có chỗ có thể cảm thông, chia sẻ bởi xét đến cùng anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Rõ ràng, không thể nhìn người và nhìn đời một phía. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ.
– Qua nhân vật người đàn ông thuyền chài, Nguyễn Minh Châu cũng muốn gửi đến chúng ta một thông điệp: Trước mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng, chúng ta cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Đúng như tác giả đã từng tâm sự: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
– Liên hệ với vấn đề bình đẳng giới trong xã hội hiện nay.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật người đàn ông hàng chài
2. Thân bài
– Xuất thân: Là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lắm”, vì trốn đi lính ngụy nên cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn.
– Ngoại hình: Cao lớn, thô kệch, khắc khổ:
Mái tóc như tổ quạ
Tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền
Hàng lông mày cháy nắng và hai con mắt độc dữ
– Tính cách:
Vốn là người đàn ông hiền lành, không bao giờ đánh vợ con
Giàu tình thương, từng cưu mang, giúp đỡ người đàn bà hàng chài
Có trách nhiệm với gia đình, cuộc sống dẫu nghèo khổ nhưng vẫn không bỏ rơi vợ con.
Là nạn nhân của đói nghèo.
Vì nghèo khổ nên tâm tính thay đổi, trở nên độc ác, tàn nhẫn:
Trút những trận đòn roi vô tình lên người vợ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”
Buông ra những lời chửi mắng, nguyền rủa độc địa “Mày chết đi. Chúng mày chết hết đi”
Ích kỉ, vô tình, vì nỗi khổ của bản thân mà gây ra đau khổ, bất hạnh cho người khác
3. Kết bài
Cảm nhận chung về nhân vật.
Đọc “Chiếc thuyền ngoài xa” bên cạnh nhân vật tư tưởng Phùng – người truyền tải những thông điệp, quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, đồng cảm, trân trọng với những giá trị tốt đẹp của người đàn bà thì nhân vật người đàn ông hàng chài, người gây nên bi kịch bạo lực gia đình cũng là nhân vật đáng chú ý, mang đến cho độc giả những suy tư, những cảm xúc phức tạp.
Người đàn ông hàng chài không được miêu tả trực tiếp mà xuất hiện qua đôi mắt của nhiếp ảnh gia Phùng khi chứng kiến cảnh người đàn ông ấy đánh vợ tàn bạo, và lần thứ hai xuất hiện là trong câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện.
Người đàn ông hàng chài theo lời kể của người đàn bà hàng chài vốn là “anh con trai cục tính nhưng hiền lắm”. Khi còn trẻ người đàn ông này đã không đi lính và trốn quân dịch nên cuộc sống của anh ta nghèo khổ, túng quẫn. Tuy cục tính nhưng người đàn ông ấy cũng là người giàu tình thương khi chấp nhận cưu mang người đàn bà trong lúc chị ta khốn khổ nhất. Khi ấy người đàn ông là mẫu người chồng lý tưởng, không bao giờ đánh vợ cũng không biết uống rượu, không biết hút thuốc. Tuy nhiên, cuộc sống khó khăn với những gánh nặng gia đình đã khiến cho người đàn ông ấy thay đổi tâm tính, từ người đàn ông hiền lành hắn trở nên vũ phu, bạo lực với chính người vợ đầu gối tay ấp của mình.
Thông qua cái nhìn và những đánh giá của nhân vật Phùng về người đàn ông, ta có thể cảm nhận được về hoàn cảnh đói nghèo của gia đình hàng chài. Đó là người đàn ông cao lớn, thô kệch với tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, “mái tóc tổ quạ”, “chân đi chữ bát”, “hai con mắt độc dữ”…Cái đói nghèo, lam lũ của cuộc sống đã in hằn lên dáng vẻ của người đàn ông ấy. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt đã làm cho ông ta thay đổi tâm tính để trở thành kẻ vũ phu, tàn độc lấy việc đánh vợ ra để giải tỏa những bức bối, ức chế trong lòng mình.
Người đàn ông đối xử với vợ tàn nhẫn vô tình với những trận đòn roi vô lí “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, cách ông ta đối xử với vợ của mình hệt như cách đối xử với kẻ thù, người gây ra mọi đau khổ của mình. Sự tàn nhẫn của ông ta thể hiện trực tiếp thông qua lời nói cục cằn, hung dữ “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ”. Từ lời quát tháo của người đàn ông ta có thể thấy được đây là một kẻ gia trưởng, độc tài tự cho mình cái quyền hành hạ, lăng mạ người khác.
Không chỉ khắc nghiệt trong lời nói, thái độ mà hành động đánh vợ của ông ta cũng có thể gây nên những phẫn nộ, bất bình “lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa…chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Sự tàn độc của người đàn ông không phải thỉnh thoảng mới xảy ra mà nó diễn ra một cách thường xuyên, đều đặn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Không chỉ đối xử tàn nhẫn với vợ mà người đàn ông ấy còn trút những bực dọc, ấm ức của bản thân lên chính đứa con của mình. Trước sự phản kháng của thằng Phát khi chống lại bố để bảo vệ mẹ, ông ta đã không nương tay khi giáng vào mặt đứa trẻ tội nghiệp ấy hai cái tát “..dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo dúi xuống cát”. Cách ông ta đối xử với vợ con như hành động của một con thú man rợ không có tình người.
Bên cạnh mặt bạo tàn, đáng trách thì người đàn ông cũng là con người đáng thương, là nạn nhân của đói khổ. Cuộc sống tuy khắc nghiệt với bao gánh nặng nhưng người đàn ông ấy không bỏ rơi vợ con mà vẫn cố gắng chèo chống con thuyền để lo việc mưu sinh. Cái cách ông ta thở hồng hộc khi đánh vợ cùng giọng rên rỉ đau đớn có thể thấy ông ta đang rất khổ tâm, đau đớn, xót xa. Ông ta giận đời, giận vợ và có lẽ giận cả mình nữa. Ông ta đánh vợ như đánh vào cái đau khổ vô hình mà hắn ta đang phải hứng chịu.
Người đàn ông hàng chài là người gây nên bi kịch gia đình cho người đàn bà hàng chài nhưng đây cũng là nhân vật đáng thương, nhân vật chủ chốt để Nguyễn Minh Châu thể hiện những quan niệm, đánh giá về cuộc đời và nghệ thuật.
Trong giai đoạn đổi mới nền văn học, Nguyễn Minh Châu được đánh giá là người mở đường tinh anh và tài hoa nhất. Những tác phẩm của ông đều hướng đến cuộc sống con người thời hậu chiến với những trăn trở về số phận con người và trách nhiệm của người cầm bút. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho những cách tân và phong cách sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Câu chuyện kể về chuyến thực tế của nhân vật Phùng tại một bãi biển nghèo miền Trung và số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài bên người chồng vũ phu. Trong truyện, càng thương cảm, xót xa cho số phận của nhân vật người đàn bà bao nhiêu thì ta càng bất bình trước sự độc ác, vũ phu của người chồng bấy nhiêu. Nhân vật người đàn ông hàng chài – người chồng vũ phu hiện lên qua những lời nói và hành động tàn nhẫn khiến Phùng và bất kì ai chứng kiến đều cảm thấy bất bình, phẫn nộ. Thế nhưng đằng sau sự lạnh lùng, tàn nhẫn đáng trách ấy còn có cả một câu chuyện dài về bản chất tính cách và sự thay đổi của người đàn ông ấy.
Nhân vật người đàn ông không được Nguyễn Minh Châu miêu tả quá chi tiết trong tác phẩm mà chỉ xuất hiện chớp nhoáng qua cái nhìn của Phùng và trong câu chuyện của người đàn và hàng chài tại tòa án huyện. Lần đầu tiên xuất hiện, người đàn ông hiện lên với dáng vẻ cao lớn, thô kệch với mái tóc như tổ quạ, tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng và hai con mắt độc dữ,…Không những thế, hành động tàn nhẫn “lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa…quất tới tấp vào lưng người đàn bà” và lời nói độc địa “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Đáng trách hơn là sự tàn độc của người đàn ông không chỉ là sự bộc phát mà nó đã diễn ra rất thường xuyên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Những lời nói và hành động mất hết nhân tính ấy khiến Phùng hay bất cứ ai chứng kiến đều cảm thấy phẫn nộ, giận dữ, không hiểu vì lí do gì mà người đàn ông ấy có thể ra tay độc ác đến vậy.
Nếu không có câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện, ấn tượng về nhân vật người đàn ông chỉ có sự độc ác, xấu xa, tàn nhẫn. Lắng nghe những trải lòng của người đàn bà, người ta mới ngỡ ra rằng người đàn ông ấy cũng rất đáng thương. Chỉ vì cuộc sống quá khổ mà tâm tính thay đổi, con người lương thiện trước kia bị cái tàn ác, thô bạo che lấp.
Trước kia người đàn ông hàng chài vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lắm”, vì trốn đi lính ngụy nên cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn. Nếu trong con mắt của Phùng, Đẩu người đàn ông là một kẻ độc ác, không có tính người thì với người đàn bà hàng chài, ông ta không chỉ là người chồng mà còn là một ân nhân. Ngày còn trẻ, người đàn bà xấu xí lại rỗ mặt do bị bệnh đậu mùa nên khó lấy được chồng. Khi ấy người đàn ông hàng chài đã chấp nhận cưu mang và mang đến cho người đàn bà ấy một cuộc sống gia đình đúng nghĩa. Gia đình chị cũng có những phút giây hạnh phúc bên nhau, hạnh phúc nhất là khi nhìn những đứa con được ăn no, có một gia đình hoàn chỉnh.
Cuộc sống trên biển vốn bấp bênh, khó khăn, gia đình lại nhiều con nên mọi gánh nặng đều đổ dồn lên đôi vai của người đàn ông ấy. Vì quá khổ nên mới sinh ra độc ác, tàn nhẫn. Không ai có thể phủ nhận sự độc ác trong hành động, lời nói của người đàn ông thế nhưng cũng cần nhìn nhận một cách công bằng, vì ở một khía cạnh nào đó, dù khổ cực, bần cùng thì ông ta vẫn cố gắng cáng đáng mà không bỏ rơi vợ con. Qua đây có thể lí giải hành động và sự thay đổi từ một anh con trai hiền lành, không bao giờ đánh vợ con thành một người tàn ác, vũ phu. Về bản chất, người đàn ông vốn hiền lành, chịu thương chịu khó, thế nhưng vì quá khổ, lại không biết uống rượu như những người đàn ông thuyền khác nên ông ta chọn cách tiêu cực, tồi tệ nhất, đó là trút những bực dọc, uất ức, mệt mỏi của bản thân lên người vợ đầu ấp tay gối của mình.
Nhìn vào ngoại hình khắc khổ và giọng điệu rên rỉ đau đớn khi buông những lời chửi mắng tàn tệ có thể thấy ông ta cũng rất đau khổ. Đau khổ vì nghèo, vì bất lực trước cuộc sống đói nghèo, bế tắc. Người đàn ông cũng là nạn nhân của cuộc sống thời hậu chiến, tuy đáng thương nhưng cũng rất đáng trách. Những áp lực vô hình của cuộc sống đã biến ông ta trở thành một kẻ độc ác, ích kỉ, nhẫn tâm ngay cả với những người thân yêu nhất của mình. Vì cái khổ và những cảm xúc tiêu cực của bản thân, ông ta không chỉ gây tổn thương về thể xác, tinh thần cho vợ mà còn làm tổn thương tâm hồn non nớt và tạo ra những nhận thức, hành động lệch lạc cho đứa con của mình.
Khép lại trang văn của Nguyễn Minh Châu, người đọc không thôi trăn trở về cuộc sống, về con người và số phận của chính những con người trong câu chuyện. Chúng ta thương một người đàn bà hàng chài giàu hi sinh, am hiểu lẽ đời, vừa thương, vừa trách một người đàn ông bị tha hóa bởi cái nghèo, cái khổ. Qua câu chuyện về gia đình người hàng chài chúng ta cũng chợt nhận ra rằng cuộc sống vốn nhiều những góc khuất, nếu không lắng mình lại để cảm nhận, để thấu hiểu ta chỉ thấy nó xấu xí, đáng trách và không bao giờ ta thương, đúng như nhà văn Nam Cao từng viết: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương”.
Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn viết vào giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu. Cái nhìn hiện thực đa chiều giúp nhà văn khám phá đời sống con người bao gồm cả quy luật tất yếu của đời sống cùng với những sự ngẫu nhiên xảy ra trong đời sống mà người ta gọi là sự may rủi. Những khám phá của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này là hiện tượng con người chấp nhận những nghịch lí của đời sống mà đáng lẽ người ta phải từ chối nó, là cảnh tăm tối, đói khổ, bấp bênh của những cư dân làng chài lưới ven các đầm phá miền Trung mà không lối thoát, là tình thương của người mẹ thể hiện bằng sự cam chịu đang hủy hoại tâm hồn đứa con,… Những khám phá đó thể hiện sự trăn trở của một nhà văn không bằng lòng với hào quang quá khứ của mình mà luôn trăn trở để tìm tòi hướng sáng tạo mới bằng tất cả lòng yêu thương con người và trách nhiệm đối với xã hội của người cầm bút.
Cốt truyện Chiếc thuyền ngoài xa khá đơn giản. Mở đầu là phóng viên Phùng đi săn ảnh để chụp bức ảnh tĩnh vật của cảnh thuyền và biển. Gặp được cảnh ưng ý, đưa máy ảnh lên bấm lia lịa thì anh lại chứng kiến một cảnh khác xuất hiện từ trong cảnh đó đi ra: người đàn ông đánh vợ với vẻ giận dữ và người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Tiếp theo là cuộc gặp gỡ với người đàn bà khi viên chánh án huyện mời chị ta đến để giúp đỡ giải quyết chuyện gia đình. Sự từ chối giúp đỡ và câu chuyện của người đàn bà đã làm cho Phùng cùng với bạn của Phùng là viên “bao công” vùng biển tên Đẩu ngạc nhiên và suy nghĩ.
Hạt nhân của câu chuyện là người đàn ông đánh vợ. Thời điểm Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, người ta ít chú ý đến chuyện bạo lực gia đình. Nguyễn Minh Châu nói đến chuyện bạo lực gia đình không giống như sự phản ánh của báo chí, công luận ngày nay. Đằng sau cái hình ảnh người đàn ông làng chài đánh vợ, dắt lên bờ, khuất sau những chiếc xe tăng để đánh (giống như những người thổ dân đưa tù binh lên hòn đảo vắng hành quyết trong tác phẩm viết cho thiếu nhi là Rô-bin-xơn Cru-xô), là câu chuyện về gia đình hàng chài vì đông con mà lại đói khổ thiếu thốn nên người đàn ông trút sự bất lực của mình lên lưng vợ bằng những chiếc thắt lưng Mĩ. Việc người đàn ông đánh vợ như vậy là do người vợ xin được đánh ở nơi không có mặt các con. Người con thương mẹ nên sinh ra căm giận bố (không biết sau này thằng Phác có giống bố nó không). Người phụ nữ cam chịu lại nói với Đẩu và Phùng những lời khẩn khoản: các chú đừng bắt tôi bỏ nó vì cần có một người đàn ông chèo lái, và ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ,… Câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện là câu chuyện về sự nhận thức cuộc sống đang xảy ra vào những năm 80 của thế kỉ trước. Phùng và Đẩu là những người đã từng cầm súng chiến đấu quyết hy sinh tính mạng mình vì sự bình yên của cuộc sống, tưởng rằng chiến tranh đi qua, con người sẽ được sống yên ổn thì bây giờ sự thật cuộc đời lại trải bày ra trước mắt. Nơi chiến trường xưa, dấu tích của chiến tranh còn để lại lồ lộ ra những chiếc xe tăng cháy đang nằm trên bãi biển vẫn còn sự đau thương, bất hạnh, vẫn còn những trận đòn đánh bằng dây thắt lưng Mĩ lên lưng người phụ nữ như chuyện thường tình trong cuộc sống. Cuộc sống đói kém và tình thương con của người mẹ đã làm cho người phụ nữ nhẫn nhục, chịu đựng mà điều này đã vượt ra khỏi sức tưởng tượng của Phùng và Đẩu. Chi tiết Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới cho thấy sự nhạy cảm của người nghệ sĩ về nỗi đau của con người, đồng thời nhắc nhở người nghệ sĩ phải thay đổi cách nhìn, cách phản ánh cuộc sống vào trong tác phẩm khi viết về cuộc sống đời thường.
Con người cùng với cuộc sống của họ được nhà văn tập trung thể hiện thông qua những nhân vật “phiếm chỉ”: người đàn ông, người đàn bà, đứa con mà người kể chuyện biết tên là thằng Phác (nhưng sau Phùng mới biết là con của họ). Những nhân vật này được hiện lên qua đôi mắt của Phùng, người kể chuyện, đồng thời là người nghệ sĩ đang đi săn tìm cái đẹp tĩnh vật.
Người đàn bà xuất hiện đầu tiên trong tác phẩm được mô tả: trạc ngoài 40 tuổi, thô kệch, khuôn măt mệt mỏi. Hình ảnh bên ngoài của người đàn bà này gợi về một cuộc đời vất vả, nhọc nhằn, lam lũ. Người đàn bà có đặc điểm là chịu đựng “rất giỏi” những trận đòn đầy hung dữ của chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, mà không hề bỏ chạy hay chảy một giọt nước mắt nào. Nhưng chị ta là người lại rất mau nước mắt khi đứng trước mặt con hay nói về con. Phần sau tác phẩm, người đàn bà xuất hiện theo kiểu lộ dần qua sự chứng kiến và cảm nhận của nghệ sĩ Phùng. Đó là một cuộc đời, một số phận như bao số phận khác của người phụ nữ làng chài: đông con, nghèo khổ, nạn nhân của bạo lực gia đình, giàu lòng thương con, cam chịu và không muốn mất gia đình. Trước “công đường”, chị có vẻ khúm núm, sợ sệt, nhưng khi đã biết những người này chỉ muốn giúp đỡ mình, chị đã mạnh dạn hẳn lên, thay đổi cách xưng hô. Lúc đầu chị là người được viên “bao công” vùng biển “giáo huấn” về những điều anh ta đã được học trong sách vở, nhưng sau đó đến lượt cả Đẩu và Phùng được nghe chị ta “giáo huấn” những bài học từ cuộc sống. Bài học mà Phùng và Đẩu học được là cuộc sống không giống như người ta tưởng, những lời giãi bày về gia đình mình làm cho Đẩu vỡ lẽ: Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ. Còn Phùng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã nghe được những lời của người đàn bà tội nghiệp kia về cái chân lí của lòng nhân đạo: Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc… Cái việc đó là phải chống chọi với những rủi ro thường gặp trong nghề chài lưới, niềm vui, nỗi buồn của một gia đình đông đúc con cái trong một chiếc thuyền, những đời sống nội tâm của những người lênh đênh trên sông nước vì sự mưu sinh mà không đủ sống, không biết giãi bày với ai, là những đứa trẻ thất học và tương lai của chúng liệu có thoát được chiếc thuyền cùng với những đắng cay nhọc nhằn không. Người đàn bà gọi Đẩu và Phùng là các chú cách mạng, có gì đó vừa thân thương nhưng cũng vừa xa lạ(có lẽ thân thương chỉ là trong quá khứ, bây giờ các chú cách mạng xa lạ thật bởi các chú có hiểu gì về cuộc sống với những phức tạp như thế này đâu). Hình ảnh người đàn bà vùng biển ám ảnh Phùng, cũng chính là cuộc sống đời thường đang ám ảnh nhà văn khi bước vào trận chiến không có tiếng súng.
Người đàn ông đánh vợ trong tác phẩm chỉ xuất hiện hai lần. Lần thứ nhất, dưới đôi mắt của Phùng là một con người hung dữ, thô bạo, với những lời cộc cằn: Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy là tao giết cả mày đi bây giờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ, những lời của những kẻ đang khốn cùng hoặc đang bước vào đường cùng mới mở miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết. Lần thứ hai xuất hiện trong lời kể của người đàn bà, nạn nhân của sự bạo hành kia, người đàn ông trước đây là một anh con trai cục tính nhưng hiền lắm,… cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính, không biết uống rượu. Như vậy, không chỉ người đàn bà mà cả người đàn ông kia cũng là nạn nhân của sự nghèo đói. Người đàn ông không theo làm lính ngụy đánh thuê lấy tiền nuôi vợ con mà cam chịu sống cuộc sống đói khổ. Bây giờ cách mạng về, scam chịu đó đã kéo dài, cùng với sự cục tính vốn có nên đã tìm lối giải thoát bằng cách đánh vợ (vợ lão cũng như những người đàn bà vùng biển khác, lại sinh nhiều con, rất thương con và phải cam chịu nếu không bị đánh đập vì tức giận thì cũng bị đánh đập vì uống rượu giải buồn).
Còn thằng Phác, được mẹ gửi lên ở với ông bà ngoại, nghĩa là đã thay đổi không gian sống, nhưng không thể ngăn được tình thương của nó đối với người mẹ khốn khổ. Thằng Phác không những giống bố nó về hình dáng bên ngoài, giống bố nó về tính cách, mà hơn cả bố nó về sự giận dữ, cả về cách cầm thắt lưng để đánh thẳng người vụng chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực vạm vỡ… Tình thương của người mẹ đối với nó (theo kiểu phụ nữ) là sự hy sinh, là những dòng nước mắt, là nội tâm bên trong. Còn tình thương của thằng Phác đối với mẹ nó rất đàn ông, đối xử với bố khi bố đánh mẹ cũng không kém phần thô bạo.
Trong ba con người này, thằng Phác là người đáng thương và đáng được quan tâm nhất. Nếu bố nó và mẹ nó chịu sự bất hạnh từ hoàn cảnh thì nó lớn lên trong thời đại không giống như trước đây (phải trốn chui, trốn lủi vì sợ bắt lính) mà bố nó phải chịu. Nó phải là một người khác: được ăn uống đầy đủ, được học hành để nên người. Trong hoàn cảnh như thế, không khéo thằng Phác sẽ tiếp tục con đường của cha mình, và có cuộc sống cũng như những người sống ở các làng chài đầm phá ở miền Trung.
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa không chỉ là những vấn đề của đời sống được tác giả phản ánh trong tác phẩm mà còn là vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống: nghệ thuật đích thực phải khám phá được những biến động của cuộc sống đằng sau những hình ảnh tưởng chừng vô cùng yên tĩnh. Người nghệ sĩ khi đi vào cuộc sống để sáng tạo phải có cách nhìn toàn diện, đa chiều, phải chấp nhận những đắng cay mà cuộc sống đem đến chứ không được lảng tránh. Đó là quan điểm và cũng là tư tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Những vấn đề có tính tư tưởng lớn lao này được nhà văn thể hiện dưới hình thức câu chuyện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh chứng kiến một sự việc (trong nhiều sự việc) của một gia đình làng chài. Vì thế, từ cách trần thuật cho đến việc tạo bối cảnh, tổ chức các lời thoại trong tác phẩm hết sức tự nhiên, chân dung nhân vật, dù chỉ phác họa vài ba nét nhưng cũng rất ấn tượng. Qua cách chọn điểm nhìn trần thuật, tác giả đã thể hiện được hai vấn đề trong nội dung của tác phẩm: vấn đề phức tạp của đời sống con người và vấn đề phản ánh của văn học. Trong từng lời văn, trong hình tượng người kể chuyện, thấp thoáng một Nguyễn Minh Châu, nghệ sĩ sáng tạo và con người giàu lòng thương yêu con người, yêu quý cuộc sống.
Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983, đây được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu. Đọc tác phẩm, bên cạnh những nhân vật như nghệ sĩ Phùng, người đàn bà hàng chài… đã để lại những ấn tượng trong lòng người đọc thì phải kể đến gã đàn ông hàng chài, một gã đàn ông vũ phu nhưng cũng đáng thương.
Trong tác phẩm, người đàn ông hàng chài là nhân vật xuất hiện không nhiều. Hình như ông ta chỉ xuất hiện hai lần: lần thứ nhất, dưới đôi mắt của Phùng khi chứng kiến cảnh đánh vợ tàn bạo của hắn và lần thứ hai là qua lời kể của người đàn bà (vợ hắn) ở tòa án huyện mà ta biết về lai lịch và nguyên nhân của sự bạo hành kia.
Mở đầu là phóng viên Phùng đi săn ảnh để chụp bức ảnh tĩnh vật của cảnh thuyền và biển. Gặp được cảnh ưng ý, đưa máy ảnh lên bấm lia lịa thì anh lại chứng kiến một cảnh khác xuất hiện từ trong cảnh đó đi ra, người đàn ông đánh vợ với vẻ giận dữ và người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Tiếp theo là cuộc gặp gỡ với người đàn bà khi viên chánh án huyện mời chị ta đến để giúp đỡ giải quyết chuyện gia đình. Sự từ chối giúp đỡ và câu chuyện của người đàn bà đã làm cho Phùng cùng với bạn của Phùng là viên “bao công” vùng biển tên Đẩu ngạc nhiên và suy nghĩ.
Trước năm 1975, người đàn ông này không đi lính ngụy mà trốn quân dịch cho nên cuộc sống của hắn nghèo khổ, túng quẫn và gặp người đàn bà hàng chài nên vợ nên chồng. Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao giờ đánh vợ con, không biết uống rượu, không biết hút thuốc, đó là mẫu đàn ông lí tưởng. Nhưng nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi tâm tính của hắn, trở thành người chồng vũ phu, người đàn ông tàn độc của những vụ bạo hành tàn nhẫn của hắn đối với vợ con. Chỉ bằng vài nét miêu tả ngoại hình về gã đàn ông hàng chài, khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, nhà văn đã cho ta biết được cuộc sống đói nghèo, lam lũ, chật chội quẩn quanh hằn in lên dáng vẻ khắc khổ của ông ta. Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt độc dữ.
Dưới đôi mắt của Phùng, người đàn ông hàng chài là một con người hung dữ, thô bạo, với những lời cộc cằn: Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy là tao giết cả mày đi bây giờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ, những lời của những kẻ đang khốn cùng hoặc đang bước vào đường cùng mới mở miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết. Trong lời kể của người đàn bà thì chồng chị trước đây là một anh con trai cục tính nhưng hiền lắm, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính, không biết uống rượu. Như vậy, không chỉ người đàn bà mà cả người đàn ông kia cũng là nạn nhân của sự nghèo đói. Người đàn ông không theo làm lính ngụy đánh thuê lấy tiền nuôi vợ con mà cam chịu sống cuộc sống đói khổ. Bây giờ đói nghèo, cùng với sự cục tính vốn có nên đã tìm lối giải thoát bằng cách đánh vợ. “ Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Hành động bạo hành của ông ta đâu phải chỉ có đối với người đàn bà khốn khổ mà còn đối với những đứa trẻ tội nghiệp (con hắn): “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”.
Advertisement
Người đàn ông hàng chài, ai cũng đều căm ghét cái thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng không đơn giản, ông ta còn là một kẻ đáng thương. Ngay cả khi quất tới tấp cái thắt lưng có khóa sắt vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến răng ken két. Tiếng nghiến răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa, xét đến cùng anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Rõ ràng, không thể nhìn người và nhìn đời một phía. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ.
Qua nhân vật người đàn ông hàng chài, tác giả đã cho người đọc thấy được mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng, chúng ta cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Không nên đánh giá mà chưa tìm hiểu kĩ sự việc.
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một trong những tác phẩm tiêu biểu nói về mối quan hệ giữa nghệ thuật cao siêu với thực tế cuộc đời trần trụi đầy nghiệt ngã, khổ đau. Ở đó, bên cạnh người đàn bà làng chài nhẫn nhục, hi sinh, bên cạnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh tinh tế với tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp say đắm, còn có nhân vật người người đàn ông thô lỗ, cục cằn. Chính hắn là tác nhân trực tiếp gây nên những khổ đau cho người đàn bà lầm lũi kia. Cũng chính hắn vẽ nên một bức tranh đầy màu đen ngay sau bức tranh mực tàu nghệ thuật tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa của nhân vật Phùng. Qua đó, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn nói lên mối quan hệ chân chính giữa cuộc đời và nghệ thuật vốn rất đẹp đẽ và giàu hoa mỹ.
Cảnh tượng người đàn ông cao lớn, vạm vỡ với đôi mắt dữ tợn đang trút trận mưa roi vào người vợ khiến cho Phùng như bừng tỉnh sau một giấc mộng đẹp vô cùng. Đây là sự thật phía sau chiếc thuyền ban nãy của Phùng ư ? Anh không dám tin vào mắt mình. Nhưng đó là đời thật. Dù sự thật có trái ngược với nghệ thuật thì nó vẫn tồn tại như một chân lý hiển nhiên. Người đàn ông được nhà văn khắc họa với những đường nét đặc trưng của người dân vùng biển : Tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà. Và đúng như dáng vẻ bề ngoài, hành động của lão cũng rất cục cằn, dữ tợn. Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn : “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Bấy nhiêu câu văn cũng quá đủ để nói lên tính cách dữ tợn, vũ phu và độc đoán, vô lương tâm của người đàn ông. Tác giả không nói vì lý do gì mà hắn đánh đập vợ như vậy, nhưng dù là gì đi chăng nữa, trước sự nín lặng và nhẫn nhịn của người đàn bà, người đọc hiểu rằng hắn là một người chồng thô bạo, tính khí vô cùng nóng nảy và rất vô tâm. Theo suy nghĩ thông thường, một người đàn ông là trụ cột gia đình bao giờ cũng là người có tình yêu thương vợ con, lo lắng và chở che cho gia đình của mình. Nhưng ở đây, người đàn ông lấy vợ mình ra để trút bỏ cơn tức giận. Hắn không những không bảo vệ vợ con mà còn hành hạ họ, khiến cho người đàn bà phải cam chịu, phải nhẫn nhịn. Sự hi sinh của bà quá lớn trong khi lão chồng quá nhẫn tâm.
Có lẽ lúc này Phùng đang rất căm tức trước hành động và thái độ của lão. Phùng muốn chạy ngay lại đánh cho hắn một trận thật đau để trả lại sự oan ức cho người đàn bà đau khổ và đứa con tội nghiệp của bà. Nhưng khi được đưa tới tòa án huyện, người đàn bà ấy lại trải lòng mình kể về người chồng vũ phu : Từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu xí, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi rước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chái giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi. Từ trong bản chất của gã chồng vũ phu ấy vẫn còn có những đức tính thiện lương, hắn đã chẳng chê bai người đàn bà xấu xí, rỗ mặt và lấy về làm vợ. Nhưng theo lời người vợ, vì hoàn cảnh sống khó khăn, lại đông con và không có nghề nghiệp gì khác ngoài việc đánh cá trên thuyền nên sự túng quẫn đeo bám khiến cho tính nết gã thay đổi. Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh… Lời kể lể ngập ngừng quá đủ để thấy sự tàn nhẫn của người chồng vũ phu. Lẽ ra lúc khó khăn nhất, là lúc cần người chồng bảo vệ gia đình nhất. Nhưng không, càng khó khăn, càng thiếu thốn, hắn lại càng thể hiện sự cáu bẳn và ác độc. Điều đó càng làm cho cuộc sống gia đình thêm ngột ngạt, khó thở.
Có lẽ rất nhiều người cũng giống như Phùng và Đẩu đều khuyên bà nên bỏ người chồng vũ phu ấy để tự giải thoát cho cuộc đời mình. Nhưng vai trò của người đàn ông trong cuộc sống ấy quá lớn, bà không thể nào bỏ được. Đó cũng chính là hệ quả của việc cải cách đời sống nhân dân chưa triệt để sau những năm đổi mới giành thắng lợi. Bởi họ ngoài nghề đánh cá ra không biết làm nghề gì khác để sinh sống. Dù được cấp đất nhưng không được phổ biến và dạy cách trồng trọt, chăn nuôi… nên họ có đất cũng vô nghĩa. Vậy nên họ không thể rời chiếc thuyền được. Mà cuộc sống trên thuyền gắn liền với những cơn giông bão hiểm nguy. Nếu không có người đàn ông khỏe mạnh chèo lái con thuyền, chắc hẳn họ cũng không thể nào sống được.
Như vậy, dù người chồng có vũ phu, bạc tình bạc nghĩa nhưng trên hết họ vẫn là người có sức khỏe, có đủ khả năng chèo lái con thuyền trước những bão giông. Trong truyện ngắn, hình ảnh của người đàn người làng chài không những là hình ảnh thật của cuộc sống người dân trong những năm cải cách đổi mới mà còn là lời nhắc nhở khéo léo của nhà văn tới thế hệ hôm nay. Rằng người đàn ông luôn đóng vai trò quan trọng trong gia đình, nhưng hãy biết yêu thương, biết đùm bọc vợ con mình. Càng trong lúc khó khăn càng phải giữ vững tinh thần, lạc quan và giàu tình thương. Bởi thế, tới cuối câu chuyện, người nghệ sĩ nhiếp ảnh vẫn có được một bộ ảnh nghệ thuật tuyệt vời mang về cho sếp. Dù phía sau chiếc thuyền ngoài xa mờ mờ ảo ảo, chỉ có Phùng mới hiểu được hết ý nghĩa sâu sắc trong đó, nhưng qua lời dẫn dắt truyện tinh tế, giản dị, dễ hiểu của tác giả, người đọc vẫn hiểu được ý nghĩa sâu xa mà ông muốn gửi gắm, muốn truyền đạt.
Văn Mẫu Lớp 12: Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Người Đàn Bà Hàng Chài (9 Mẫu + Sơ Đồ Tư Duy) Chiếc Thuyền Ngoài Xa Của Nguyễn Minh Châu
Dàn ý phân tích người đàn bà làng chài hay nhất
Dàn ý người đàn bà hàng chài
Dàn ý phân tích người đàn bà hàng chài (5 Mẫu)
Dàn ý phân tích người đàn bà làng chài đầy đủ
Dàn ý cảm nhận người đàn bà hàng chài
Dàn ý người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện
Sơ đồ tư duy phân tích người đàn bà hàng chài
Dàn ý người đàn bà hàng chài1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và dẫn dắt vào nhân vật người đàn bà hàng chài.
2. Thân bài:
* Phân tích về ngoại hình
– Xấu xí, thân hình cao lớn, thô kệch
– Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi, buồn ngủ
* Cảnh ngộ của người đàn bà hàng chài
– Bất hạnh vì ngoại hình xấu xí
– Cuộc sống sau khi có gia đình luôn thiếu thốn về vật chất, tủi nhục về tinh thần
– Thường xuyên phải chịu những trận đòn của chồng “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
* Phẩm chất của người đàn bà hàng chài
– Là người mẹ có tình yêu thương con vô bờ:
Xin chồng mang mình lên bờ để đánh → Tránh những tổn thương về tinh thần cho các con.
Gửi thằng Phác lên bờ sống với ông ngoại.
Không chịu bỏ chồng vì muốn các con có một gia đình có bố có mẹ.
– Là người vợ có tình yêu dành cho chồng vô cùng sâu sắc:
Thấu hiểu tâm tính của người chồng: Vốn hiền lành chăm chỉ, vì khổ quá mà sinh bạo tàn.
Chấp nhận những trận đòn roi tàn nhẫn để giúp chồng giải tỏa những áp lực của cuộc sống.
– Người đàn bà từng trải, thấu hiểu lẽ đời:
Hiểu được ý tốt và suy nghĩ của Phùng và Đẩu.
Hiểu được cuộc sống trên biển không thể thiếu đi vai trò của người đàn ông.
– Là người đàn bà rất giàu đức hy sinh: Chấp nhận những đau đớn về thể xác để bảo vệ hạnh phúc gia đình.
3. Kết bài:
Đánh giá nhân vật người đàn bà hàng chài và nêu cảm nghĩ về nhân vật này
Dàn ý phân tích người đàn bà hàng chài Dàn ý chi tiết số 1I. Mở bài
Giới thiệu Nguyễn Minh Châu
Giới thiệu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
Giới thiệu nhân vật người đàn bà hàng chài
II. Thân bài
1. Tên tuổi
Không tên tuổi cụ thể, gọi phiếm định “người đàn bà hàng chài”, “mụ”.
Chỉ là một người vô danh như bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.
2. Vóc dáng ngoại hình
Thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”- đó là hình ảnh một con người lam lũ, mất hết sinh lực, niềm vui, sức sống.
Nghèo khổ, nhọc nhằn (lưng áo bạc phếch)
Mặc cảm, tự ti ( dáng vẻ lúng túng)
3. Số phận đau khổ, bất hạnh
*Chuyển ý:
Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng hàng.
Một người đàn bà bất hạnh, nhẫn nhục chịu đựng (người đàn bà bị đánh)
Người đàn bà chịu những nỗi đau khổ chồng chất: mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, chịu đựng những trận đòn của chồng, nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.
4. Vẻ đẹp tâm hồn và tính cách.
* Chuyển ý:
-Tham khảo chuyển ý sau:
Đằng sau cái vóc dáng thô kệch ấy, đằng sau cái vẻ ngoài rách rưới ấy, đằng sau cái hành động nhẫn nhịn ấy người đọc còn nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, tính cách khuất lấp của người đàn bà hàng chài này.
– Chuyển ý hay hơn:
Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời ở người đàn bà rách rưới này.
a. Vẻ đẹp của một người từng trải sâu sắc: đẹp nhất nhưng đặc biệt nhất
Nguyên nhân vũ phu của người chồng: do hoàn cảnh ép buộc chứ không phải bản chất
Người đàn bà hàng chài cần một người đàn ông trên thuyền để chèo chống khi phong ba bão táp ập đến.
Từ khi có Đảng, nhà nước cuộc sống còn bất cập: không hợp lý, không hợp lòng dân.
b. Vẻ đẹp khoan dung, nhân hậu, độ lượng: thiên chức của người phụ nữ.
Chị không trách chồng mà kéo tội lỗi về phía mình (vẻ đẹp nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam)
Chị thấy trong chuyện này mình là người có lỗi.
c. Vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng
– “Người đàn bà hàng chài chúng tôi sống cho con chứ không phải sống cho mình”
– Khi nhắc đến cảnh hòa thuận trên thuyền, chị hạnh phúc khi “ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”, “khuôn mặt xám xịt của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”
III. Kết bài
Cảm nghĩ của mình về nhân vật.
Dàn ý chi tiết số 2a) Mở bài
Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Ông luôn thiết tha truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.
Chiếc thuyền ngoài xa in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con người.
Tác giả đã tìm thấy một trong những hạt ngọc ẩn giấu ấy trong tâm hồn người đàn bà hàng chài.
b) Thân bài
* Hiện thân cho nỗi thống khổ của người phụ nữ làm nghề chài lưới
– Ngoại hình xấu xí, “trạc ngoài 40 tuổi, thân hình cao lớn, thô kệch”, “gương mặt với những nốt rỗ chằng chịt”, “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”.
– Nghèo túng, đông con, thuyền chật:
Khi biển động, không thể đi biển: cả gia đình ăn xương rồng chấm muối. Đó là nỗi khổ vật chất và tinh thần.
Lưng áo bạc phếch, mặt mệt mỏi, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ. Đó là kết quả của chuỗi ngày dài đối diện với hiểm nguy, đói khát.
Trải qua nhiều lần sinh nở, “có một sắp con trên dưới 10 đứa”.
Không gian sống lại là con thuyền lưới vó chật hẹp.
– Bị hành hạ vũ phu, thường xuyên: gã chồng lấy việc lấy vợ làm phương thức giải tỏa uất ức “trút cơn giận… người đàn bà”, “”3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng”.
Người đàn bà chịu đau đớn về mặt thể xác nhưng chị ta không kêu van, chạy trốn.
Chịu nhục nhã về tâm hồn: bị hành hạ bởi người mình yêu thương, làm tổn thương tâm hồn những đứa con nhỏ của bà. Đau đớn khi thằng Phát nhìn thấy cảnh tượng.
* Vẻ đẹp tiềm tàng của người đàn bà làng chài
– Sự bao dung, độ lượng, vị tha
+ Có cái nhìn bao dung với người chồng mình:
Thấy người đàn ông đáng thương, đáng được cảm thông “lão chồng tôi khi ấy… hiền lành, không bao giờ đánh đập tôi”; trốn đi lính ngụy, chính cuộc sống nghèo khổ đã biến anh ta thành kẻ ác (có thể so sánh với cái nhìn của Phác, Phùng, Đẩu).
Luôn coi chồng là người bạn đời thân thiết: cùng chèo chống con thuyền trong lúc phong ba, cùng nuôi con, mưu sinh trong cõi đời cơ cực,…
+ Nhận mọi lỗi về mình: “cái lỗi chính là đám đàn bà chúng tôi…”, “giá tôi đẻ ít đi”
+ Chắt chiu, nâng niu, trân trọng hạnh phúc: “vả lại trên thuyền cũng có lúc vợ chồng, con cái hòa thuận, vui vẻ,…”
– Một người mẹ giàu đức hi sinh, lòng thương con vô hạn
Coi việc mình bị hành hạ, chịu đói khổ là lẽ đương nhiên, là vì hạnh phúc con cái: “đàn bà trên thuyền chúng tôi … đất được”.
Muốn nuôi con khôn lớn nên chịu đựng hành hạ để ở cùng các con. Niềm vui nhỏ nhoi, tội nghiệp: “vui nhất là khi thấy chúng được ăn no”
– Thâm trầm, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời:
Nhận ra sự ngây thơ, đơn giản trong suy nghĩ của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu: “Các chú không phải người làm ăn… lam lũ”, theo người đàn bà, hai người họ thiếu sự từng trải, quen nhìn đời qua sách vở.
Người đàn bà xấu xí thất học ấy giúp người có học thức như Đảu và Phùng hiểu được nguyên nhân mình không bỏ chồng: muốn nuôi con khôn lớn “cần phải có người đàn ông… chục đứa”
Lặng lẽ kín đáo: tất cả những vẻ đẹp của chị ta đều không được bộc lộ ra bên ngoài.
* Đặc sắc nghệ thuật
Cốt truyện hấp dẫn
Nghệ thuật khắc họa nhân vật
Xây dựng tình huống truyện độc đáo
Giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở
Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo
c) Kết bài
Khái quát ý nghĩa của nhân vật người đàn bà hàng chài
Nêu cảm nhận riêng của em.
Dàn ý chi tiết số 31. Mở bài
Giới thiệu nhà văn Nguyễn Minh Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật người đàn bà làng chài.
2. Thân bài
– Ngoại hình: Trạc ngoài bốn mươi, thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Khuôn mặt mệt mỏi sau những đêm thức trắng, tấm lưng bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.
Sinh nhiều con, cuộc sống túng quẫn, lão chồng trở nên hung bạo đánh đập vợ để trút giận.
– Tính cách, phẩm chất:
Nhẫn nhục, chịu đựng: Thường xuyên bị chồng đánh bằng roi mây một cách tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị không hề khóc than, không van xin cũng không chống trả.
Khi đứng trước quan tòa, vị chánh án khuyên bà bỏ chồng, bà van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.
→ Bà cam chịu, nhẫn nhịn vì con, muốn con có một gia đình và nuôi chúng nó khôn lớn.
– Giàu tình yêu thương:
Sự cam chịu, nhẫn nhịn của bà bắt nguồn từ tình yêu thương con vô bờ bến. Thương con, chị không muốn con chứng kiến cảnh bạo hành nên xin chồng đánh trên bờ, gửi thằng Phác lên rừng, chị cảm thấy có tội với nó khi vì thương chị mà nó hận bố nó.
– Vị tha, bao dung:
Bị người chồng đánh đập mà bà vẫn không hề căm giận, oán trách hay muốn trả mối hận. Thậm chí bà còn biết ơn người đã cùng bà chèo chống con thuyền trách nhiệm để nuôi con.
Bà nhận mọi lỗi lầm về mình, bà nghĩ sự hung bạo của chồng cũng vì bà mà ra.
– Thấu hiểu lẽ đời:
Bà ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”.
• Đánh giá chung
Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong lòng mọi người.
Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung và giá trị nghệ thuật của nhân vật cũng như tác phẩm tác phẩm; đồng thời nêu vai trò, vị trí của tác phẩm trong nền văn học.
Dàn ý chi tiết số 4a. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” và nhân vật người đàn bà
b. Thân bài
– Tên gọi, ngoại hình:
Không có tên riêng → Chị cũng giống như những người đàn bà ở vùng biển khác nhỏ bé, bình thường, vô danh.
Trạc ngoài bốn mươi, cao lớn với những đường nét thô kệch, rỗ mặt, mặt tái ngắt, dường như đang buồn ngủ → Người đàn bà lam lũ, vất vả, nhọc nhằn với cuộc sống mưu sinh trên biển.
– Số phận: Bi kịch, bất hạnh vì ngoại hình xấu xí, nghèo khổ, phải chịu những trận đòn roi từ người chồng.
– Vẻ đẹp tâm hồn:
+ Vị tha, bao dung: Chị hiểu được nguyên nhân mà người chồng trở nên vũ phu như vậy và đồng cảm, cam chịu để chồng đánh. Chị nhận hết lỗi về mình
+ Giàu đức hi sinh và tình yêu thương con:
Chị không muốn các con phải chứng kiến cảnh người chồng đánh mình nên chị xin lên bờ đánh; khi thằng Phác nhìn thấy cảnh bố đánh mẹ và giằng được chiếc thắt lưng từ người bố thì chị đã ôm chầm lấy nó để tránh cho con sự tổn thương.
Chị cảm thấy vui nhất khi đàn con được ăn no.
+ Chị hiểu hoàn cảnh của mình, hiểu lẽ đời, hiểu lòng tốt của Phùng và Đẩu nhưng lòng tốt ấy lại không thể áp dụng trong trường hợp của chị.
→ Người đàn bà hàng chài đã mang đến cho Phùng và Đẩu một cách nhìn nhận thực tế hơn và bao quát hơn.
c. Kết bài
Cảm nhận về nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Dàn ý chi tiết số 51. Mở bài
Giới thiệu nhà văn Nguyễn Minh Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật người đàn bà làng chài.
2. Thân bài
– Ngoại hình: Trạc ngoài bốn mươi, thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Khuôn mặt mệt mỏi sau những đêm thức trắng, tấm lưng bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.
Sinh nhiều con, cuộc sống túng quẫn, lão chồng trở nên hung bạo đánh đập vợ để trút giận.
– Tính cách, phẩm chất:
Nhẫn nhục, chịu đựng: Thường xuyên bị chồng đánh bằng roi mây một cách tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị không hề khóc than, không van xin cũng không chống trả.
Khi đứng trước quan tòa, vị chánh án khuyên bà bỏ chồng, bà van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.
→ Bà cam chịu, nhẫn nhịn vì con, muốn con có một gia đình và nuôi chúng nó khôn lớn.
– Giàu tình yêu thương:
Sự cam chịu, nhẫn nhịn của bà bắt nguồn từ tình yêu thương con vô bờ bến. Thương con, chị không muốn con chứng kiến cảnh bạo hành nên xin chồng đánh trên bờ, gửi thằng Phác lên rừng, chị cảm thấy có tội với nó khi vì thương chị mà nó hận bố nó.
– Vị tha, bao dung:
Bị người chồng đánh đập mà bà vẫn không hề căm giận, oán trách hay muốn trả mối hận. Thậm chí bà còn biết ơn người đã cùng bà chèo chống con thuyền trách nhiệm để nuôi con.
Bà nhận mọi lỗi lầm về mình, bà nghĩ sự hung bạo của chồng cũng vì bà mà ra.
Thấu hiểu lẽ đời:
Bà ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”.
– Đánh giá chung
Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong lòng mọi người.
Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung và giá trị nghệ thuật của nhân vật cũng như tác phẩm tác phẩm; đồng thời nêu vai trò, vị trí của tác phẩm trong nền văn học.
Dàn ý phân tích người đàn bà làng chài đầy đủ1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
2. Thân bài:
a. Tên tuổi và ngoại hình
* Tên tuổi:
– Không có tên tuổi, chỉ gọi phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài”, “mụ”.
– Vô danh, đại diện cho những người phụ nữ vùng biển khác
– Là hiện thân của những mảnh đời phụ nữ cơ cực
* Ngoại hình:
– Trạc tuổi 40, ngoại hình xấu xí, thô kệch: thân hình cao lớn, mặt rỗ
– Hiện lên trong sự lam lũ, nghèo khổ, khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt.
– Dáng vẻ của một người phụ nữ nhà quê, mặc cảm, tự ti “dáng vẻ lúng túng”, rụt rè khi gặp Phùng và Đẩu.
b. Số phận của người đàn bà hàng chài:
– Số phận bất hạnh và khổ đau:
Nhà khá giả nhưng vì xấu xí và rỗ mặt nên phải lấy một anh chàng hàng chài.
Quanh năm phải làm lụng, lam lũ trên biển nhưng vẫn đói nghèo.
Bị chồng đánh đập dã man “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng không thể phản kháng.
c. Vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài:
* Vẻ đẹp của người phụ nữ từng trải, sâu sắc, thấu hiểu sự đời:
– Thông cảm cho sự vũ phu của người chồng, do hoàn cảnh ép buộc.
– Hiểu được một con thuyền lênh đênh trên biển cần bàn tay của người đàn ông.
– Hiểu được suy nghĩ của Phùng và Đẩu.
* Vẻ đẹp của người phụ nữ nhân hậu và tình mẫu tử thiêng liêng:
– Bị chồng đánh nhưng không phản kháng, trách cứ chồng mà nhận hết trách nhiệm và tội lỗi về mình.
– Chị chấp nhận những trận đòn roi vì muốn giải tỏa những áp lực cho chồng.
– Chị có tấm lòng yêu thương con sâu sắc:
Không bỏ chồng vì cần người đàn ông chèo chống, lo cho con cái.
Không muốn con chứng kiến cảnh bạo lực, xin chồng đưa lên bờ đánh.
Khi bị con chứng kiến cảnh bị đánh, mụ khóc, đau khổ, xấu hổ.
Không muốn con làm chuyện dại dột với bố nên gửi con lên bờ.
Khi thấy con cái ăn no, chị hạnh phúc vô cùng.
3. Kết bài:
Lòng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu.
Dàn ý cảm nhận người đàn bà hàng chàiA. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật người đàn bà hàng chài
B. Thân bài
1. Tên tuổi và ngoại hình của người đàn bà hàng chài
Không có tên tuổi cụ thể, chỉ được gọi “người đàn bà hàng chài” hay “mụ”.
Nghèo khổ, nhọc nhằn.
Luôn mặc cảm và tự ti về chính mình.
2. Số phận người đàn bà làng chài
Bất hạnh, bị chồng đánh nhưng vẫn luôn nhẫn nhịn, chịu đựng.
Chồng chất đau thương: nỗi đau thể xác như mệt mỏi vì thức trắng đêm kéo lưới, đau đớn khi chịu những trận đòn của chồng; nỗi đau tinh thần thể hiện qua việc lo sợ con cái chứng kiến cảnh bạo lực.
3. Vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của người đàn bà hàng chài
– Ngược lại với vẻ ngoài thô kệch, rách rưới là vẻ đẹp của tâm hồn và tính cách.
– Vẻ đẹp của người từng trải:
Nguyên nhân người chồng vũ phu: do hoàn cảnh ép buộc.
Người đàn bà này cần một người đàn ông trên thuyền để có thể chèo chống phòng khi phong ba bão táp kéo đến.
Nhà nước, Đảng còn chưa có sự quan tâm, bất cập, không hợp lòng dân.
– Vẻ đẹp của một trái tim nhân hậu, khoan dung và độ lượng:
Chịu bị chồng đánh, không kêu than, không chạy trốn.
Người chồng đánh vợ vì thương vợ khi nhìn vào cái nghèo đói trên tấm lưng bạc phết của chị.
– Vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng trong thân hình thô kệch
Sống vì con, không sống vì mình.
Sợ con có những hành động sai trái, dại dột với bố nó, chị đã van nài con.
Niềm hạnh phúc lớn nhất của chị là nhìn đàn con được ăn ngon.
III. Kết bài phân tích người đàn bà hàng chài
– Nêu cảm nghĩ về nhân vật và số phận người đàn bà vùng biển ngày ấy.
Dàn ý người đàn bà hàng chài ở tòa án huyệnI. Mở bài :
– Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
– Giới thiệu giá trị nhân đạo của truyện
Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, “Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong” và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới. Truyện xoáy sâu vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền chài ở một vùng ven biển miền Trung. Điều đó được thể hiện sâu sắc trong câu chuyện người đàn bà ở toà án huyện.
II. Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Truyện kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ Phùng tại vùng biển để chụp ảnh làm lịch nghệ thuật. Một buổi sáng, Phùng đã chụp được bức ảnh “trời cho”, đó là ảnh của một chiếc thuyền lưới vó trong buổi bình minh sương sớm. Cùng lúc ấy, Phùng phát hiện ra câu chuyện kì lạ về gia đình hàng chài sống trên chiếc thuyền ấy : người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn với thái độ cam chịu . Được tòa án mời đến giải quyết chuyện gia đình, người đàn bà van xin đừng bắt mình phải bỏ chồng. Trước sự ngạc nhiên của chánh án Đẩu, nghệ sĩ Phùng, người đàn bà kể lại câu chuyện về cuộc đời mình.
2. Phân tích câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện:
a. Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ…
+ Theo lời mời của Đẩu, chánh án toà án huyện, người đàn bà hàng chài đã có mặt ở toà án huyện. Trước lời đề nghị và giúp đỡ của Đẩu và Phùng, người đàn bà dứt khoát từ chối. Chị đau đớn đánh đổi bằng mọi giá để không bỏ lão chồng vũ phu dù “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được”.
+ Tại toà án, chị kể về cuộc đời mình và gián tiếp giải thích lí do vì sao chị nhất quyết không thể bỏ lão chồng vũ phu: Thứ nhất, gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời những người hàng chài như chị, nhất là khi biển động, phong ba. Thứ hai, chị cần hắn, bởi vì còn phải cùng nhau nuôi những đứa con. Thứ ba, trên thuyền, có những lúc vợ chồng, con cái sống hoà thuận, vui vẻ.
+ Nếu ban đầu mới đến toà, chị sợ sệt, lúng túng, một lạy quý toà, hai lạy quý toà thì sau khi nghe lời khuyên của Đẩu, chị trở nên mạnh dạn, chủ động. Chị bác bỏ ngay lời đề nghị của vị chánh án và của người nghệ sĩ: “các chú đâu phải người làm ăn (…) cho nên các chú đâu có biết cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc (…)bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Cách xưng hô của chị cũng trở nên gần gũi, thân mật hơn. Chị không còn xưng hô “con – quý toà” mà tự xưng là “chị” và gọi Phùng, Đẩu là “các chú”. Nguyên nhân của sự thay đổi ấy là vì chị đã cảm nhận được thiện ý của hai người và có lẽ còn là sự cảm thông của chị cho sự nông nổi, ngây thơ của họ?
b. Câu chuyện đã giúp nghệ sĩ Phùng hiểu về người đàn bà hàng chài (một phụ nữ nghèo khổ, nhẫn nhục, sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm hồn đẹp đẽ, giàu đức hi sinh và lòng vị tha); về người chồng của chị(bất kể lúc nào thấy khổ quá là lôi vợ ra đánh); chánh án Đẩu (có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng kinh nghiệm sống chưa nhiều) và về chính mình (sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ).
+ Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà, thái độ của anh rất cương quyết. Anh tin ở lời khuyên đúng đắn và đầy sức thuyết phục của mình: “chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”.
+ Nhưng khi nghe xong câu chuyện “một cái gì đó vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ”. Có lẽ giải pháp “bỏ chồng” mà Đẩu áp dụng trong trường hợp của người đàn bà này là không ổn. Trong hoàn cảnh ấy, cách hành xử của chị ta dường như là không thể nào khác?
+ Cũng như Đẩu, nghệ sĩ Phùng im lặng sau câu chuyện của người đàn bà. Có lẽ, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng đang trầm ngâm suy nghĩ những gì vừa xảy ra. Lúc này, Phùng vỡ ra được nhiều điều, hiểu rõ hơn về người đàn bà, về Đẩu và về cả chính mình. Người đàn bà thất học, quê mùa không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Trong khổ đau, cơ cực, chị biết chắt chiu từng giọt của hạnh phúc đời thường. Chị luôn sống với tâm niệm thiêng liêng là: “sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chánh án Đẩu là người có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng còn xã rời thực tế, chưa thực sự đi vào cuộc sống nhân dân. Lòng tốt là điều rất quí, luật pháp là điều cần thiết nhưng cả hai vẫn chưa đủ sức mạnh giúp con người thoát khỏi cuộc sống tăm tối và những hành động man rợ. Tất cả phải đặt vào hoàn cảnh cụ thể và cần phải có giải pháp thiết thực. Phùng nhận thấy mình đã đơn giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người. Cũng như người đồng đội Đẩu, anh chỉ nhìn người một cách phiến diện, nông nổi ngây thơ chẳng khác gì thằng bé Phác: chỉ thấy được một khía cạnh của người đàn ông hàng chài là độc ác, tàn nhẫn, vì vậy cần phải đấu tranh, lên án. Trong khi đó, người đàn bà quê mùa, xấu xí, thất học lại có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn. Đối với người đàn ông độc ác, dữ dằn, chị đau đớn nhưng không oán hận vì chị thấu hiểu nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành động vũ phu ấy, bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện câu chuyện người đàn bà hàng chài:
– Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.
– Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
– Ngôn ngữ nhân vật: Phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
III. Kết bài:
– Tóm lại, qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp: đứng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều chiều.
– Từ đó, tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai : Văn học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người.Quan niệm ấy đã khiến tác phẩm của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn này giàu nhân bản. Đọc tác phẩm của ông, người ta đau đớn, day dứt về thân phận con người và thật sự tin tưởng vào khát vọng làm người cao đẹp của những người lao động nghèo.
Advertisement
Sơ đồ tư duy phân tích người đàn bà hàng chài Bài văn mẫu phân tích người đàn bà hàng chài
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài – người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh .
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng . Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.
Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,…
Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc” Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’
Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.
Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ :”Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: ” Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Chị ” phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.
Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mới hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.
Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho ông.
Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : “..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Bài Thơ Nhớ Đồng Của Tố Hữu (Dàn Ý + 5 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 11
Dàn ý phân tích bài thơ Nhớ đồng1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Tố Hữu
Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất.
Ông là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
– Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích
Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.
2. Thân bài
a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù
– Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.
Tiếng hò được lặp lại nhiều lần. Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữa trời trưa → nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh
– Lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài
– Tiếng hò đã đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh → Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê, cuộc sống bên ngoài nhà tù.
Tiếng than khắc khoải, da diết → diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài → nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời.
Sự lặp lại → nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng → triền miên vì nỗi nhớ da diết.
– Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:
Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.
– Con người gần gũi thân thuộc thân thương:
Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.
– Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến
– Nhớ đến bản thân mình:
Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.
“Rồi một …ngát trời”
→ Say mê lý tưởng, khao khát tự do sôi nổi ⇒ càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam cầm.
b. Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu
– Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:
Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đậm đà với: cồn thơm, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng, con đường thân thuộc → những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương nay đã trở nên xa cách.
Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người → người mẹ già nua → nhớ chính mình
Nỗi nhớ trải dài từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại
⇒ nhớ, tràn ngập xót thương → không chỉ buồn đằng sau là nỗi phẫn uất, bất bình với thực tại ⇒ niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.
3. Kết bài
Đây là bài thơ hay, giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ đồng quê, con người, chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc sống bên ngoài nhà tù và bao trùm hơn hết là tình yêu Tổ quốc, khát vọng tự do.
Lựa chọn hình ảnh gần gũi, quen thuộc, giọng thơ da diết, khắc khoải trong nỗi nhớ
Phân tích Nhớ đồng – Mẫu 1Tố Hữu – một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông được kết nạp đảng năm 1938 thì đến năm 1939 trong quá trình hoạt động đã bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ, hoạt động cách mạng hăng say và nhiệt huyết là thế nhưng lại bị bắt giam nên trong quá trình bị giam cầm ông đã sáng tác một tập thơ mang tên “Từ ấy”, bài thơ “Nhớ đồng” nằm trong phần “Xiềng xích” của tập thơ nói về tâm trạng nhớ quê hương, cách mạng của ông những ngày tháng sống trong trại giam.
Trong hoàn cảnh bị giam cầm tù hãm, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi những u buồn, nhớ thương, chính tiếng hò vang vọng đâu đó đã đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người tù. Giữa không gian đồng không mông quạnh trưa nắng, một con người lẻ loi, cô độc đang bị giam cầm tách biệt với cuộc sống bên ngoài.
“Gì sâu bằng” ấy là nói về nỗi nhớ sâu thẳm trong cõi lòng tác giả, điệp từ “đâu” ở đầu suốt năm câu thơ như là nỗi day dứt tìm kiếm trở về với cuộc sống khi xưa, tìm kiếm sự yên bình nơi quê hương trong sự ngậm ngùi:
Bức tranh cuộc sống sinh hoạt làng quê thân thương và rất đỗi bình dị hiện ra trước mắt người tù cộng sản, chỉ là tưởng tượng thôi nhưng nó sống động và tuyệt đẹp, giàu xúc cảm biết bao. Không chỉ là cảnh đồng lúa, khóm tre, nương rẫy hay những mái nhà tranh, ở trong tâm tưởng của nhà thơ còn có con người, những người nông dân cơ cực vất vả nhưng ấm áp tình người.
Đâu đó còn là bóng dáng của người mẹ thương nhớ càng siết chặt thêm nỗi khắc khoải khôn nguôi của nhà thơ, tác giả như chìm đắm, say trong những cơn nhớ nhung không dứt “Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ…” từng lời như đang than thở vì sự bất khả kháng với hoàn cảnh của chính mình, không thể thoát ra để giải tỏa nỗi lòng. Người chiến sĩ trẻ nhớ về những ngày đầu đến với lý tưởng cách mạng và thời hoạt động cách mạng tự do của mình:
Trước là nhớ về quá khứ tối tăm ngột ngạt của mình để như khẳng định hơn sự sáng suốt và đúng đắn, niềm hạnh phúc khi tìm được lý tưởng cách mạng, và rồi tác giả tự cho mình những giây phút say trong niềm khao khát hoạt động cách mạng ấy, tâm trạng u buồn bỗng nhiên được tưới mát trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, “Nhẹ nhàng như con chim cà lơi”, cánh chim tượng trưng cho sự tự do tự tại và tác giả đang ví mình là những con chim đó, say trong đồng hương nắng như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Nhưng dù có cố gắng cách mấy nhà thơ cũng không tránh khỏi sự đối mặt với thực tại bị giam hãm trong lao tù, hai câu thơ kết lặp lại y nguyên hai câu thơ đầu, nhấn mạnh sự bất lực, bế tắc không có lối thoát. Mặc dù vậy tư tưởng hướng về quê hương và cách mạng vẫn còn đó, khát vọng về một ngày được tự do được hoạt động cách mạng vẫn luôn cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản.
Qua bài thơ “Nhớ đồng” người đọc không chỉ cảm nhận được một tình yêu quê hương tha thiết của Tố Hữu mà còn thấy hiện lên một người chiến sĩ cộng sản yêu lý tưởng cách mạng, yêu đất nước và khát vọng tự do hành động, hy sinh vì Tổ quốc.
Phân tích bài thơ Nhớ đồng – Mẫu 2Bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu được lấy cảm hứng từ một tiếng hò thân thuộc của quê hương và tiếng hò ấy trở thành mạch cảm xúc của bài thơ.
Về mặt hoàn cảnh trữ tình, khi nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời trưa, thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh, và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Đó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, của thời gian trưa vắng, của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đang bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài.
Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà mình đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lí về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thể sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nổ là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.
Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trước hết có tác dụng liên kết. Lặp và điệp từ là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch ý. Nhưng quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại này bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp từ tạo ra một nhịp điệu luân hồi, triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.
Đồng quê hiện lên rất đậm nét qua nỗi nhớ của tác giả. Đó là những cảnh sắc như đồng ruộng với những cồn thơm, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai sắn ngọt bùi; xóm nhà chìm lặng, con đường mòn mỏi theo năm tháng. Tất cả đều là những cảnh sắc đơn sơ quen thuộc mà rất đỗi thân thương. Là những bóng dáng người lao động lam lũ, nhọc nhằn, và nhất là bóng dáng người mẹ già đơn chiếc – những kiếp người muôn đời gắn bó với đất đai. Họ chất phác và bền bỉ như đất đai.
Tóm lại, Nhớ đồng là nhớ toàn bộ cuộc sống bên ngoài mà giờ đây đã trở nên cách biệt đối với người chiến sĩ bị tù đày.
Nhớ đồng là một tâm trạng khá chân thực và trọn vẹn với những diễn biến tự nhiên, liền mạch. Nỗi nhớ bắt đầu dâng lên khi nghe thấy tiếng hò. Tiếng hò gợi dậy tất cả những gì của thế giới đồng quê bên ngoài. Đầu tiên là nhớ những cảnh sắc, rồi nhớ đến những bóng dáng con người: từ những người lao khổ trên đồng đến hình bóng thân yêu nhất là người mẹ già nua đơn chiếc. Rồi nhớ về chính mình những ngày chưa bị giam cầm, tóc đang được tung hoành trong bầu trời tự do bát ngát. Cuối cùng khi trở lại với thực tại bị giam cầm, trong lòng tác giả trĩu nặng một nỗi nhớ triền miên.
Nỗi nhớ bắt đầu từ hiện tại đi ngược về quá khứ rồi cuối cùng lại trở về hiện tại; từ thực tại giam cầm ngược về thuở tự do rồi lại trở về với thực tế giam cầm. Nó không chỉ có nhớ nhung mà còn tràn ngập xót thương, không chỉ có buồn rầu thương nhớ cuộc đời mà còn cháy bỏng niềm khao khát tự do. Và quan trọng hơn, bên dưới tâm trạng ây là một nỗi bất bình, phẫn uất với thực tại.
Bài thơ mang tên Nhớ đồng nhưng cảm xúc và hình ảnh không dừng lại ở nỗi nhớ đồng, mà đó còn là sự nhớ thương cuộc sống, nỗi lòng khao khát tự do và bất bình với thực tại.
Phân tích bài thơ Nhớ đồng – Mẫu 3Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.
Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.
“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:
Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.
Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:
Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con người, mùi hương, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.
Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:
Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phẩm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.
Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:
Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi“. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.
Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên. Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.
Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.
Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.
Phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu – Mẫu 4Tiếng thơ cất lên trong ngục tù, vọng nỗi niềm khắc khoải thiết tha của chàng thanh niên 19 tuổi Tố Hữu hướng về cuộc sống tự do, tất cả những hình ảnh, cảm xúc hòa quyện làm thành một nỗi nhớ gắn kết nhà thơ với thế giới bên ngoài. Nhớ đồng viết trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, trong cái im ắng không gian trưa để tác giả nghe tiếng vọng lòng mình rõ nhất.
Dấn thân vào chốn lao tù khi tuổi đời còn quá trẻ, Tố Hữu mở đầu phần “Xiềng xích” với Tâm tư trong tù, cảm nhận rõ hoàn cảnh mất tự do, xác định ý chí sắt đá của người chiến sĩ, tự động viên mình vượt lên nghịch cảnh, tách biệt lí trí và tình cảm có phần cực đoan và bồng bột. Nhưng đến Nhớ đồng, ta bắt gặp một Tố Hữu hoàn toàn khác, có sự chín chắn hơn sau những thử thách đầu tiên. Nếu không hiểu hoàn cảnh này, ta cứ ngỡ bài thơ mang tâm trạng của một khách tha phương vọng về cố xứ! Cũng dễ hiểu thôi, khi Tố Hữu làm thơ cũng là lúc Thơ Mới đang chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn, là một người trẻ tuổi yêu thơ, chắc chắn nhà thơ dễ cảm được nỗi lòng của những bạn trẻ đồng trang lứa. Có ngẫu nhiên chăng khi bị lâm vào cảnh tù hãm, Tố Hữu lại viết một loạt những “Nhớ người”, “Nhớ đồng” như một cách cắt nghĩa khác với “Nhớ rừng” của Thế Lữ – thác lời con hổ trong cảnh sa cơ nhớ thời oanh liệt! Cũng là nhớ, nhưng nhà thơ lãng mạn để cho nỗi nhớ khơi dậy niềm kiêu hãnh và nỗi ngậm ngùi thân phận cá nhân, đề cao và khẳng định vị thế của cái Tôi. Còn Tố Hữu thông qua nỗi nhớ, xác lập các mối liên hệ với thế giới bên ngoài, thấm thía cả vẻ đẹp và nỗi buồn cuộc đời, gửi gắm tình yêu cuộc sống và cũng là nhận thức của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, vừa da diết bâng khuâng vừa hăm hở sôi nổi. Có một cái Tôi – chiến sĩ và thi sĩ – càng lúc càng đằm thắm, đầy tinh thần lạc quan tin tưởng vào lý tưởng, trên tinh thần “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”!
Sau khoảnh khắc cảm nhận “gì sâu bằng” như một cách cắt nghĩa lòng mình, ùa về trên những dòng thơ của Nhớ đồng là bao hình ảnh ngồn ngộn sức sống của đồng quê quen thuộc:
Không gian sau nỗi nhớ thật bình dị thân thuộc, khắc khoải một tâm trạng kiếm tìm, nuối tiếc, trân trọng những vẻ đẹp của nhà thơ. Làng quê hiện về trong kí ức với hương của đất, bóng mát lũy tre làng, sắc xanh nao lòng của mạ và vị ngọt bùi khoai sắn gợi một cảm giác thật bình yên, đáng yêu đáng quí. Cái nhìn từ tâm trạng của một người bị mất tự do thật thấm thía khi “một tiếng hò” vọng vào làm hiện lên bao hình ảnh cuộc sống bên ngoài càng gợi nhớ gợi thương. Và nhà thơ còn cảm nhận được cái “hiu quạnh” của những cuộc đời quẩn quanh tù túng, lặng lẽ trôi đi trong nhịp đời day dứt buồn thương:
Có đáng buồn không những thân phận lầm lũi sau lũy tre làng, những cuộc đời chìm trong bóng tối mang theo cả cái ngột ngạt của cuộc sống “âm u”, gợi tình cảnh đất nước chìm đắm trong kiếp nô lệ! Cái “hiu quạnh” không phải do tác động từ không gian ngoại cảnh mà bắt nguồn từ nhận thức của người chiến sĩ đã dấn thân trên con đường cách mạng, nhận ra bi kịch của dân tộc mình, đồng bào mình! Niềm thương cảm cho những cuộc đời “không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” như quặn thắt trong lòng nhà thơ, như một sự chia sẻ ngậm ngùi. Bức tranh cuộc sống trong “nhớ đồng” đâu chỉ là vẻ đẹp mà còn là ám ảnh nỗi niềm tâm sự của người dân mất nước, man mác như một khúc Nam ai xứ Huế.
Nỗi buồn thương vẳng vào từ câu hò, làm thành tiếng vọng từ trong lòng nhà thơ hướng ra bên ngoài tha thiết: “Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh – Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”. Phải chăng nhà thơ đang cất lên “tiếng gọi đàn”, đánh thức những hồn đồng điệu? Trân trọng biết bao những vần thơ cảm nhận về vẻ đẹp con người làm nên cuộc sống:
Tình cảm gắn bó con người xuất phát từ nhận thức về mối liên hệ giữa người chiến sĩ với quần chúng cách mạng. Khổ thơ bộc bạch vẻ lạc quan, thi hứng gợi nhắc vần thơ trong “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của nhà thơ lãng mạn Pháp V. Hugo:
(Xuân Diệu dịch)
Khổ thơ của Tố Hữu không đơn độc một bóng hình ông lão, mà khái quát hình ảnh “những lưng cong xuống luống cày” – hình ảnh con người nhân dân giản dị mà vĩ đại với cuộc đời cần lao thắp lên niềm hy vọng tương lai, “vãi giống tung trời những sớm mai”! Có ngẫu nhiên chăng sự gặp gỡ trong hình ảnh biểu tượng “bàn tay” gieo hạt của nhà thơ lãng mạn Pháp và người chiến sĩ trẻ Tố Hữu? Phải mở lòng ra với cuộc sống, mới nói lên hết được tình yêu và niềm tin ở con người tha thiết vậy. Giữa những nông dân trên cánh đồng cần mẫn và người chiến sĩ đấu tranh vì cái đẹp cuộc đời, đã có sự đồng cảm của người gieo mầm cho một tương lai tốt đẹp!
Điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ…” lại cất lên, sau những hình ảnh đầy xao xuyến về cuộc sống: chiều sương phủ bãi đồng, lúa mềm xao xác, những nhịp điệu những âm vang “tiếng xe lùa nước” hòa với “một tiếng hò” như miết vào tâm khảm, làm nỗi nhớ như sâu hơn, lắng đọng hơn! Có lẽ đến lúc này nhà thơ mới thật thấm thía cảm giác của một người bị giam hãm trong bốn bức tường xà lim để hiểu rõ giá trị cuộc sống tự do lớn lao biết chừng nào! Những khổ thơ tiếp nối có sự chuyển mạch cảm xúc, vọng về nỗi niềm riêng tư. Nhà thơ lưu luyến tiếc nhớ, khắc ghi những bóng hình cuộc sống vào trái tim nhạy cảm của mình, khi thực tại chỉ có một mình đối diện không gian quạnh quẽ của nhà lao:
Ta chợt phát hiện ra giây phút yếu lòng nhất của chàng trai Tố Hữu! Nhưng đó là tâm trạng hoàn toàn hợp lý, khi con người bị bủa vây bởi nỗi cô đơn, sự vắng lặng thì càng khắc khoải nhớ về người thân yêu, đặc biệt là người mẹ như muốn tìm một chốn chở che, để được vỗ về yêu thương. Thú vị hơn là trong khổ thơ này, ta gặp nỗi niềm từng cất lên trong Thơ Mới “Chao ôi mong nhớ, ôi mong nhớ – Một cánh chim thu lạc cuối ngàn” (Chế Lan Viên). Quả thật, thơ Tố Hữu “thoát thai từ Thơ Mới” nhưng tinh thần thì hoàn toàn khác. Nỗi nhớ sau tiếng than “chao ôi…” của nhà thơ là “mẹ già xa đơn chiếc” rất cụ thể, rất đời thường và tạo cảm giác gần gũi thân thiết chứ không phải là một bóng hình tan biến vụt bay vào hư vô như câu thơ của họ Chế! Mẹ ở đây còn là quê hương, là những gì thiêng liêng nhất, sâu thẳm nhất bền chặt nhất của đời người. Câu thơ còn làm ta hiểu sâu sắc về tâm hồn người cộng sản. Để rồi từ mẹ quê, nhà thơ lại nhớ về những người “chất phác”, “thật thà” mang theo hồn quê, tình quê hương đất nước. Những hình ảnh thật cảm động ấy không còn thuộc về thế giới ngoại cảnh mà đã thật sự thành máu thịt, tâm hồn nhà thơ, Để rồi, chính những tình cảm ấy những con người ấy đem lại cho nhà thơ nguồn sức mạnh, sự tỉnh táo nhìn lại chính mình, khẳng định một sự chọn lựa dứt khoát và đúng đắn. Hai khổ thơ nói về bản thân là sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tràn đầy niềm hạnh phúc được hòa nhập với những quần chúng lao khổ:
Đó cũng là lúc nhà thơ bộc bạch trọn vẹn nhất cái tôi của mình. Không phải là một cái tôi buồn, cô đơn và yếu đuối như các thi sĩ lãng mạn đồng trang lứa mà là cái tôi tràn đầy tình yêu và niềm tin với cuộc đời. Hình ảnh thơ tái hiện lại khoảnh khắc xúc động và thiêng liêng khi nhà thơ đứng vào đội ngũ chiến đấu: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ – Mặt trời chân lí chói qua tim…”. Không còn những do dự, “vẩn vơ”, “quanh quẩn” của thuở “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” mà thực sự nhà thơ đã trưởng thành, vững vàng một niềm tin, sẵn sàng chiến đấu cho lí tưởng. Dẫu cho thực tại, nhà thơ phải chịu cảnh tù đày, nhưng vẫn “mơ qua cửa khám bao ngày”, hướng lòng mình về cuộc sống tự do, dẫu có chút ngậm ngùi “như cánh chim buồn nhớ gió mây” nhưng vẫn ánh lên một khát vọng được tung cánh, được bay nhảy trong vùng trời tự do.
Bài thơ Nhớ đồng mang theo âm hưởng của một điệp khúc tâm trạng da diết nhớ thương con người và cuộc sống, làm nên những cung bậc trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình phong phú đa dạng. Thực chất của “nhớ đồng” là nhớ những mối dây liên hệ với cuộc đời, là lời tự nhắc nhở động viên mình của nhà thơ, trong hoàn cảnh lao tù. Giọng thơ khắc khoải, thấm đượm những ân tình sâu nặng của con người hiểu rõ và yêu mến đất nước, nhân dân, khao khát tự do. Chính cuộc sống giản dị, con người chất phác đã đem lại cho nhà thơ sức mạnh tinh thần, lạc quan trước hoàn cảnh, vững vàng trong thử thách đầu đời. Cái đáng quý nhất là chất trẻ trung, tươi mới của hồn thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng, lí trí và tình cảm hòa quyện giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, tiêu biểu cho tinh thần của những chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.
Những vần thơ như vậy trong Nhớ đồng nói riêng và tập thơ Từ ấy nói chung giúp ta thêm hiểu và trân trọng thế hệ cha anh, sẽ mãi còn vang ngân trong lòng các thế hệ tương lai.
Phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu – Mẫu 5Tố Hữu (1920 – 2002) xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đã đóng góp cho nền văn học việt Nam đặc biệt vào thời kì cách mạng, thơ của ông mang tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Những tác phẩm của Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần dân tộc. Ông xứng đáng là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Nhớ đồng là một trong số những bài thơ tiêu biểu phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đồng bào, đồng chí Những tâm tư ấy được thể hiện trong bài thơ Nhớ đồng một cách thâm trầm, da diết. Qua bài thơ Nhớ đồng đã góp phần cụ thể hóa thành nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Advertisement
Cả bài thơ có thể chia làm bốn đoạn,ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ sâu sắc kết thúc bằng câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng. Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.
Bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo khác nhau, nỗi nhớ đó trải dài xuyên suốt cả bài thơ, bắt đầu với biện pháp sử dụng những câu hỏi tu từ ở cuối mỗi khổ thơ: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới góp phần thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù,mong ngóng được trở về từng ngày.
Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định rằng có một thứ gì, không có một cái gì, không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam. Tố Hữu đã sử dụng những câu hỏi tu từ kết hợp với tính từ mang tính chất mãnh liệt khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Câu hò quen thuộc của xứ Huế là cái cớ gọi về nỗi nhớ,nó giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù. Những âm thanh đó đã ăn sâu vào kí ức của chính tác giả, cũng giống như âm thanh của tiếng hò Huế, âm thanh của tiếng gà trưa của thơ Xuân Quỳnh cũng có lúc kéo nhân vật trữ tình về với những nỗi niềm thương nhớ như vậy. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy biết bao hình ảnh của cuộc sống giản dị mến thương trong tâm tưởng nhà thơ.
Năm từ “ đâu” xuất hiện trong mười câu thơ, giống như một sự tiếc nuối của tác giả những năm tháng xưa cũ,hiện tại đâu còn, chỉ là nhắc nhớ lại vậy thôi. ở đây bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang hững hờ. Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp biết bao. Nhưng quê hương giờ đây chỉ còn sống trong tâm tưởng của tác giả, khi xung quanh là 4 bức tường của lao tù. Những câu hỏi trăn trở lặp đi lặp lại nhiều lần phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:
Câu cảm thán được sử dụng, như một tiếng lòng của tác giả, không thể để mãi trong lòng nên đành thốt lên: “ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!” . nhớ đến những trưa thương nhớ, đồng quê nhớ những thứ thân thuộc, tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực của những người nông dân cơ cực,nhưng họ không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những dáng hình thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt tái hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Bóng dáng quen thuộc hiện ra, mẹ già thương nhớ, những hôm mưa nắng dãi dầm, những mảnh tình người thân thiết ấm nồng, những hồn thơ thắm thiết, như thắt chặt sự nỗi nhớ da diết với các hình ảnh quen thuộc. Nhưng tất cả chỉ còn trong tưởng tượng:
Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Khiến người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này, bất lực với tâm trạng của mình,chẳng thể thoát ra ngoài.
Điều quan trọng sau tất cả nỗi nhớ đó là khi tác giả ngộ ra lí tưởng cách mạng:
Đó là những ngày tháng mà người thanh niên yêu nước băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Tưởng nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi được “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Tố hữu nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với biết bao kì vọng, lạc quan, để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động.
Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn. Cảm xúc chuyển từ nỗi nhớ quê hương nhớ hình ảnh quen thuộc và rồi cô đúc lại thành:
Nỗi nhớ mênh mang được ví với hình ảnh so sánh: Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày. Cánh chim đó, cánh chim của tự do,của tình yêu quê hương,cánh chim bay vút lên để đón nhận lí tưởng cao đẹp
Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu đầu, tác giả đã sử dụng kết cấu vòng, và bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng và lan tỏa
Nhớ đồng là bài thơ góp phần diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản, đó là những cảm xúc hết sức chân thực, những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng cùng với đó là tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Từ chính những cảm xúc đó càng thôi thúc tác giả quyết tâm nung nấu ý chí để vượt lên khó khăn thách thức.
Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Bài Thơ Tôi Yêu Em Của Puskin (Dàn Ý + 10 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 11 Hay Nhất
Phân tích Tôi yêu em của Puskin
Dàn ý phân tích bài thơ Tôi yêu em
Phân tích Tôi yêu em
Phân tích Tôi yêu em hay nhất
Phân tích bài thơ Tôi yêu em ngắn gọn (5 Mẫu)
Phân tích bài thơ Tôi yêu em đầy đủ (3 Mẫu)
Dàn ý phân tích bài thơ Tôi yêu emI. Mở bài: giới thiệu bài thơ Tôi yêu em
II. Thân bài: phân tích bài thơ tôi yêu em của Puskin
1. Bốn câu thơ đầu:
– Suy nghĩ về tình yêu của mình, có sự yêu thương và độc lập, có gì đó như là một phần trong anh
– Tác giả cho rằng tình yêu không phải là chiếm hữu mà là cho đi, nghĩ là nghĩ cho người mình yêu.
2. Hai câu thơ 5-6:
– Tình yêu như sóng dâng tràn bờ, lí trí con người không thể khống chế được cảm xúc, tình yêu của mình
– Tình yêu thắng lí trí, thể hiện sự khát vọng được thể hiện tình yêu, giãi bày tất cả
3. Hai câu thơ 7-8:
– Lời cầu chúc, khẳng định sự tôn thờ tình yêu
– Khẳng định tình yêu không bị dập tắt
– Trân trọng tình yêu đối với người hơn tình yêu bản thân mình
– Tình yêu chân thành
III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ tôi yêu em của Puskin
Ví dụ:
Qua bài thơ tôi yêu em của Puskin ta có thể cảm nhận được tình yêu nồng cháy và say đắm của tác giả dành cho người mình yêu, muốn giải bày tâm sự với người thương.
Phân tích Tôi yêu emPuskin được mệnh danh là “Mặt trời của thi ca Nga” với những tác phẩm vô cùng xuất sắc viết về tình yêu. Hồn thơ của Puskin thường nói đến vẻ đẹp nội tâm con người cùng lòng nhân ái của tâm hồn nhân loại. Trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, “ Tôi yêu em” là một khúc ca về tinh yêu với đầy đủ cung bậc cảm xúc khi yêu, có thổn thức, có mong nhớ nhưng cũng nhiều nuối tiếc về mối tình đơn phương của tác giả.
“Tôi yêu em” dường như là một lời giãi bày tình cảm của tác giả một cách chân thành và sâu sắc nhất.
Câu thơ cất lên một cảnh giản dị, chân thành như chính nỗi lòng của tác giả đang gửi gắm đến người mà mình yêu thương. Từng câu thơ chậm rãi, mang theo chút ngượng ngùng nào đó. Tác giả dùng từ “ chừng có thể, chưa hẳn” để nói về sự vương vấn gì đó chưa thật sự dứt khoát. Tác giả có lẽ đang sợ điều gì đó, sợ mình làm cho người ta sợ. Mặc dù vậy nhưng câu thơ phần nào đã bày tỏ được tình yêu say mê của tác giả, đó là tình cảm đã xuất phát từ lâu lắm rồi chứ không phải chỉ mới bắt đầu.
Ở hai câu thơ tiếp theo, bỗng nhiên giọng thơ thay đổi hoàn toàn:
Tình cảm trong trái tim của người dù đã rõ ràng rồi, nhưng nhân vật lại không muốn làm khó đối phương, làm cho người ta phải khó xử. Một trái tim yêu nồng nàn nhưng cũng rất lý trí. Hai câu thơ được ngắt ra bởi từ “ nhưng”, thể hiện sự dứt khoát, rõ ràng đối với người con gái. Nhân vật “ tôi” tự ý thức được bản thân mình thế nào, dù có phải chịu ấm ức hay chuyện gì thì cũng không muốn để người con gái phải bận lòng thêm. Có lẽ nhân vật lúc này sẽ cảm thấy rất buồn và suy nghĩ, khi không biết đối phương đang nghĩ gì và muốn gì. Nhân vật “ tôi” thật sự có một trái tim đa sầu đa cảm , biết nghĩ cho cảm xúc của người khác chứ không chỉ biết đến bản thân mình. Cảm xúc của nhân vật “ tôi” ở đây chắc chắn đang bị dồn nén, không được thoát ra, không được bày tỏ khiến cho nhân vật trở nên khó chịu mà không biết tỏ cùng ai.
Nhưng rồi cảm xúc bỗng nhiên vỡ òa ở bốn câu thơ tiếp. Tình yêu là như vậy, cảm xúc không thể giữ lại trong trái tim, mà phải được bật tung ra. Điệp từ “ tôi yêu em” một lần nữa xuất hiện, như lời khẳng định chắc chắn về tình yêu của chàng trai:
Tình yêu của chàng trai vẫn vậy, vẫn vẹn nguyên như thế nhưng giờ đây không chỉ giấu ở trong tim nữa mà đã được giãi bày thẳng thắn với cô gái. Bởi lẽ dù tình yêu âm thầm, không hi vọng nhưng đó dù sao cũng là tình cảm chân thành, không gian dối. Những câu thơ với nhịp thở trở nên nhanh hơn, dồn dập hơn, như là nhịp đập của con tim người đang yêu nồng nàn và mãnh liệt.
Điều đặc biệt xuất hiện ở câu thơ cuối, câu thơ được coi là điểm nhấn của bài thơ. Câu nói của nhân vật rất khéo léo, tinh tế khi thể hiện được tình cảm của bản thân, nhưng cũng thể hiện được sự vị tha, hi sinh vì hạnh phúc của người mình yêu. Có lẽ nhà thơ đang tự khẳng định một lần nữa tình yêu dành cho người con gái. Dù không được đền đáp nhưng tình yêu đó vẫn mãnh liệt và không chấm dứt. Tình yêu đó là một thứ tình yêu cao cả, và đáng khâm phục. Nhưng đâu đó trong tình yêu vẫn có chút ghen tuông, hờn giận. Bởi nếu không ghen thì đã không nghĩ đến người khác cũng dành tình cảm cho cô gái. Một bản hợp xướng tuyệt vời với đầy đủ cung bậc cảm xúc trong tình yêu, những điều không thể thiếu của những người đang yêu.
“Tôi yêu em“ là một bài thơ vừa chân thật, gần gũi nhưng cũng vô cùng lãng mạn, đẹp đẽ. Đây được coi là một bài thơ tình xuất sắc, không thể thay thế của Puskin khi miêu tả được đầy đủ những cung bậc cảm xúc của tình yêu theo một cách tinh tế nhất.
Phân tích Tôi yêu em hay nhấtA-lếch-xan-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Pu-skin (1799 – 1837) đã có những đóng góp lớn lao cho sự phát triển của nền văn học Nga và thế giới nửa đầu thế kỉ XIX. Mặc dù xuất thân từ tầng lớp đại quý tộc nhưng cuộc đời Puskin lại gắn bó sâu sắc với số phận của nhân dân, đất nước. Nhà thơ dũng cảm đấu tranh chống chế độ chuyên chế độc đoán của Sa hoàng. Những sáng tác của Puskin thể hiện tâm hồn Nga đôn hậu, trong sáng, khao khát tự do và tình yêu.
Tài năng văn chương của Puskin hết sức đa dạng, ông viết được nhiều thể loại và thể loại nào cũng có những tác phẩm được đánh giá là kiệt tác nghệ thuật, tiêu biểu như: Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin (tiểu thuyết thơ), Con đầm pích (truyện ngắn), Bô-rít Gô-đu-nốp (kịch lịch sử),.. Tình yêu là nguồn cảm hứng mạnh mẽ, bất tận trong thơ Puskin. Vì thế nên thơ lãng mạn của ông thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả. Puskin viết về tình yêu như một sự thôi thúc, khám phá.
Qua thơ ông, những cung bậc tình cảm đa dạng, những sắc thái cảm xúc phong phú, những rung động thầm kín của con tim, những ấn tượng khó nắm bắt của tình yêu con người được diễn tả vô cùng chân thực. Sức hấp dẫn tuyệt vời trong thơ tình yêu của Puskin chính là sự chân thành, cao thượng được thể hiện bằng nghệ thuật ngôn từ điêu luyện. Tôi yêu em là bài thơ thể hiện thành công điều đó.
Dịch nghĩa:
Dịch thơ:
Bài thơ dường như là lời từ giã của một mối tình đơn phương vô vọng. Điểm độc đáo là lời từ giã này cũng chính là lời giãi bày, thổ lộ, bộc bạch của trái tim yêu luôn sôi nổi, nồng nàn. Bài thơ hấp dẫn người đọc không phải bằng ngôn từ cầu kì, trau chuốt mà là bằng tình cảm chân thành, xúc động, giống như những đợt sóng lúc sôi nổi dạt dào, lúc dịu êm, sầu lắng. Bố cục bài thơ có thể chia làm ba phần: Bốn câu đầu: Những mâu thuẫn giằng xé. Hai câu giữa: Nỗi khổ đau tuyệt vọng. Hai câu cuối: Sự cao thượng chân thành.
Nhân vật em trong bài thơ là Ô-lê-nhi-na, một thiếu nữ xinh đẹp mà Puskin yêu say đắm và đã dành cho nàng những vần thơ ca ngợi. Mùa hè năm 1828, thi sĩ đã ngỏ lời cầu hôn nhưng nàng không chấp nhận. Nỗi thất vọng đắng cay âm thầm ấy là nguyên nhân ra đời của bài thơ nổi tiếng này. Có thể xem đây là một câu chuyện tình thu nhỏ.
Cảm xúc chủ đạo của bài thơ được nhấn mạnh qua điệp khúc Tôi yêu em. Ba lần điệp khúc này vang lên, mỗi lần gắn với một cung bậc tình cảm và diễn biến tâm trạng khác nhau của nhân vật trữ tình. Tình yêu mà thi sĩ dành cho người con gái ấy đã được thử thách qua thời gian.
Thi sĩ khẳng định thời gian không thể làm cho tình yêu ấy phôi pha và ngọn lửa tình yêu không bao giờ tắt trong lòng mình. Đại từ em được dùng với ý trân trọng, tạo cảm giác vừa thán thiết, vừa xa cách. Cụm từ Tôi yêu em mở đầu bài thơ là lời thú nhận tình yêu chân thành của nhân vật trữ tình:
Âm điệu thơ ngập ngừng, đứt quãng, giống như nhịp đập bất thường của trái tim đang thổn thức bởi trĩu nặng nỗi đau. Cảm xúc thơ dàn trải, lan toả, phù hợp với tâm trạng suy tư, trái trở, day dứt của nhân vật trữ tình về tình yêu đơn phương của mình.
Những cụm từ có thể, chưa hẳn biểu thị tính chất khó xác định dứt khoát của tâm hồn, tình cảm. Nhân vật trữ tình không giấu giếm những uẩn khúc trong lòng mình. Trong trái tim thi sĩ, hình bóng người con gái đáng yêu không dễ phai mờ và tình yêu dành cho nàng chưa hẳn đã tàn phai bởi ngọn lửa si mê vẫn âm ỉ cháy. Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm được thể hiện khá rõ, qua đó Puskin đã bày tỏ khát vọng tình yêu cùng những băn khoăn, day dứt trong tâm trạng của nhân vật trữ tình – hình bóng của chính thi sĩ.
Đến câu thơ 3 và 4, mạch thơ đột ngột chuyển hướng. Cụm từ phủ định Nhưng không như nhấn mạnh một quyết định dứt khoát: Nhân vật trữ tình tự buộc mình phải cố mà quên và dường như đã phải dùng đến sự cương quyết của lí trí để chế ngự trái tim đang rớm máu. Tôi yêu em tha thiết, nồng nàn nhưng lại không muốn em phải bận lòng thêm nữa.
Tình cảm của nhân vật em được hé mở qua hai từ: bận lòng và u hoài. Người đọc có thể thấy được sự éo le trong quan hệ tình cảm của nhân vật trữ tình và thiếu nữ anh yêu. Tình yêu của nhân vật trữ tình (Tôi) không đem lại niềm vui và hạnh phúc mà chỉ mang lại nỗi bận lòng và sự u hoài cho em mà thôi.
Đó là điều đau xót và đáng tiếc. Tôn trọng người mình yêu, nhân vật trữ tình lòng tự nhủ lòng phải cố quên đi tình yêu đơn phương, cho dù nỗi khổ đau đang giằng xé tâm hồn:
Điệp khúc Tôi yêu em mở đầu khổ thơ thứ hai gắn liền với các động từ chỉ trạng thái. Mỗi từ như cô đặc một trạng thái cảm xúc cụ thể: nỗi đau khổ âm thầm, niềm tuyệt vọng, sự rụt rè lẫn hậm hực lòng ghen. Chỉ qua hai câu thơ mà tưởng như những tình cảm giấu kín tận đáy sâu tâm hồn đã được bày tỏ và thi sĩ đã thể hiện rất thật cảm xúc của mình lúc này Những từ phủ định liên tiếp nhấn mạnh tính chất đơn phương của mối tình và cho thấy nhân vật trữ tình luôn băn khoăn, đau khổ.
Anh đã chân thành giãi bày tất cả những yếu đuối, bất lực, những góc khuất của tâm hồn – một tâm hồn yêu đương cháy bỏng trong âm thầm, cuồng nhiệt trong vô vọng, đắm đuối đến bối rối, âu lo, thắc thỏm; một tâm hồn vật vã trăn trở, day dứt, không biết đến sự nhẹ nhõm, an bình, thanh thản.
Câu thơ nói đến sự bị động tiêu cực mà lại làm hiện lên những nhịp đập sôi nổi, mạnh mẽ tràn đầy sinh lực của trái tim yêu. Những từ lúc, khi góp phần diễn tả biến động dồn dập trong cảm xúc của nhân vật trữ tình. Tôi biết em không nhớ tới tôi nhưng lúc nào trái tim tôi cũng hướng về em, bồn chồn day dứt và cả sự hậm hực đến cồn cào của lòng ghen bị dồn nén.
Trong tình yêu, yêu và ghét là hai trạng thái vừa đối lập vừa thống nhất, giống như hai mặt của một tờ giấy. Ghét thực ra cũng là một biểu hiện của tình yêu nhưng xét về bản chất, đó là biểu hiện của thứ tình yêu sở hữu ích kỉ. Lòng ghen tuông mù quáng dễ làm cho con người rơi vào sự nghi kỵ thấp hèn. Đối với Puskin, ghen tuông gợi nỗi buồn đen tối. Nhấn mạnh lòng ghen, câu thơ gợi tâm trạng nặng nề, u ám. Tưởng như nhân vật trữ tình đang rơi vào vực sâu của nỗi đớn đau, tuyệt vọng.Điệp khúc thứ ba Tôi yêu em gắn với hai câu thơ cuối:
Cảm xúc bị kìm hãm trong hai câu thơ trước giờ đây như được giải tỏa bởi tình yêu cao thượng, chân thành, đằm thắm. Nhịp điệu chậm rãi cùng âm hưởng da diết, sâu lắng góp phần diễn tả cảm xúc thiết tha và đem lại cho câu thơ sức hấp dẫn lạ lùng, vượt lên nỗi buồn đau u ám và lòng ghen tuông ích kỉ, nhân vật trữ tình cầu chúc: Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.
Tuy nhiên, đây không đơn thuần chỉ là lời cầu chúc tế nhị thay cho lời vĩnh biệt một tình yêu không thành mà còn vừa mang niềm nuối tiếc, xót xa vừa ẩn chứa sự tự tin và niềm kiêu hãnh. Có thể sẽ chẳng có người nào yêu em chân thành, đằm thắm như tôi đã yêu em. Cũng có thể tôi và em, chúng ta đã để mất một tình yêu quý giá chẳng thể tìm lại được bao giờ. Câu thơ cuối là lời khẳng định, là sự thăng hoa của tình yêu cao thượng. Nó đã đưa tình yêu lên ngôi, làm chói sáng nhân cách của con người.
Bài thơ Tôi yêu em đã phản ánh sinh động tâm hồn trong sáng và tình yêu chân thành của nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình đã vượt lên thói ích kỷ thường tình để trao gửi đến người mình yêu ước mong cho nàng được hạnh phúc. Chàng trai ấy đã giữ lại những khổ đau dằn vặt cho riêng mình để dâng hiến cho người con gái mình yêu tất cả những gì đẹp nhất của tình yêu.
Dẫu là lời từ giã tình yêu song nỗi buồn ở đây không sướt mướt, ủy mị mà nhân hậu, vị tha. Đó là tình yêu biết vượt qua những dục vọng ích kỷ của bản thân để cầu mong cho người mình yêu được hạnh phúc.
Phân tích bài thơ Tôi yêu em ngắn gọn Bài làm mẫu 1Từ khi loài người biết yêu và biết làm thơ đã có thơ về tình yêu. Tình yêu là đề tài luôn luôn xưa cũ và cũng luôn luôn mới mẻ. Mỗi thi nhân khi đến với đề tài huyền diệu này đều có những phát hiện riêng. Những bài thơ tình hay nhất không hẳn là những bài thơ có hình thức đẹp đẽ, ngôn từ bóng bẩy, mà điều quan trọng là tiếng nói chân thành nơi trái tim yêu đã làm rung động bao trái tim khác, khi họ đến với tình yêu tạo nên một sự cộng hưởng sâu xa trong tâm hồn nhân loại. Tôi yêu em của Puskin là một bài thơ như thế. Bằng một cách nói giản dị, chân thành, Puskin đã dạy cho con người biết yêu một cách cao thượng và nhân văn.
Puskin là nhà thơ Nga thiên tài – người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học và nền văn học Nga phong phú, đậm đà tính dân tộc. Nhà thơ nổi tiếng Giu-cốp-xki đã coi Pu-skin là “người khổng lồ tương lai”. Khát vọng tự do thấm đượm trong thơ Puskin. Ông là người ca sĩ của tự do. Puskin còn là ca sĩ của tuổi trẻ. Tình bạn, tình yêu là cảm hứng trong rất nhiều sáng tác của ông.
Tôi yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng của Puskin, của thi ca Nga và của cả nền thơ ca thế giới. Bài thơ được sắp xếp liền mạch 8 câu, không chia thành các khổ thơ. Toàn bài có hai câu thơ lớn, mỗi câu 4 dòng thơ. Như vậy, trên thực tế bài thơ như gồm hai phần, cả hai phần đều bắt đầu bằng cùng một cụm từ Tôi yêu em. Thoạt nhìn tưởng như ý quẩn, trùng lặp, đọc kĩ mới thấy ý thơ ào ạt trào lên:
Con sóng sau dữ dội, mãnh liệt hơn con sóng trước. Hình thức lặp lại nhưng cảm xúc có sự khác biệt.
Xét bề ngoài câu chữ, nhân vật trữ tình dường như thông báo việc rút lui chối bỏ say mê, dập tắt lửa tình (nhưng không để em bận lòng thêm nữa, hay hồn em phải gợn bóng u hoài). Đó là trật tự lôgic trong cách giãi bày tình cảm của nhân vật trữ tình. Nhưng trật tự logic đó chỉ là bề ngoài, còn trong sâu thẳm tâm linh, mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình cuồn cuộn chảy, bất chấp logic. Không nén được cảm xúc đó cứ bật lên như một điệp khúc: Tôi yêu em.
Hãy bàn rộng một chút về cách dùng đại từ nhân xưng trong bài thơ, cách dùng đại từ nhân xưng trong câu chuyện tình yêu là cả một vấn đề. Người dịch đứng trước nhiều lựa chọn: Tôi yêu chị/ Tôi yêu cô/ Tôi yêu em/ Anh yêu em. Kiểu xưng hô trước có phần trang trọng, khách khí. Kiểu xưng hô sau lại quá tha thiết. Người dịch chọn kiểu xưng hô tôi yêu em là thỏa đáng vì nó nói lên đúng quan hệ vừa gần, vừa xa, vừa đằm thẳm, vừa dang dở giữa nhân vật trữ tình.
Tôi yêu em là cách nói không mới nếu không muốn nói là đã trở nên rất quen thuộc và xưa cũ. Trong lịch sử ngôn ngữ học, từ khi loài người biết yêu đã có cụm từ này. Tuy nhiên, với mỗi người khi bước vào tình yêu nó luôn luôn mới, đặc biệt mới ở cách thể hiện. Con người luôn chờ mong ở lời thổ lộ ấy những khao khát, đam mê, hồi hộp, những ngọt ngào, tha thiết,…
Trong bài thơ, “Tôi yêu em” lặp lại nhiều lần như một điệp khúc. Đó vừa là một cách khẳng định không chút hồ nghi, băn khoăn, do dự, vừa là một sự thú nhận với tất cả sự chân thành thốt lên từ đáy lòng. Đó là khát vọng cháy bỏng của một trái tim yêu muốn được đáp lại. Đó còn là một lí luận của tình yêu: Tôi có quyền yêu em cho dù em có yêu tôi hay không. Tình yêu là thế. Lí luận của con tim nhiều khi bất chấp lí luận của khối óc.
“Ngọn lửa tình” có lúc bùng lên mãnh liệt, có lúc thầm lặng âm ỉ nhưng đó là cái âm ỉ của một, ngọn núi lửa lúc nào cũng có thể phun trào. Tình yêu âm thầm, đơn phương, có lúc chông chênh “không hi vọng” hỡi nhân vật trữ tình nhiều khi có cảm giác “tôi tìm em, em tìm ai?”. Yêu một người là hạnh phúc vì yêu vì khổ đau vì cảm giác tình yêu không được đền đáp. Nhân vật trữ tình có lúc rụt rè như một chàng trai mới lớn không dám đến gần để rồi ghen với cả những ánh mắt qua đường. Puskin trong thơ tình của mình đã nói rất nhiều về lòng ghen:
Tuy “hậm hực lòng ghen” nhưng nhân vật trữ tình là người dịu dàng, tao nhã, văn hóa tình yêu thể hiện khá rõ. Nét nổi bật nhất trong nhân cách yêu là “chân thành, đằm thắm”, đằm thắm, chân thành ngay cả khi “không hi vọng”. Đó là một mối tình tự nguyện, một tình cảm trọn vẹn dành cho người mình yêu.
Tóm lại, tình cảm của nhân vật trữ tình đầy đủ mọi sắc thái, mọi cung bậc, vừa rất con người với những đam mê, những hờn ghen, vừa mang tính lí tưởng bởi yêu hết mình và hiến dâng trọn vẹn.
Điều bất ngờ ở câu thơ kết là nhân vật trữ tình mặc dù “yêu chân thành, đằm thắm vẫn cầu mong cho người mình yêu có được người yêu “như tôi đã yêu em”. Theo logic thông thường, người ta sẽ cầu mong cho người mình yêu cũng yêu mình. Tình yêu cao thượng đã khiến nhân vật trữ tình vượt lên trên cái logic thông thường đó, mang đến cho câu thơ nhiều hàm chứa ý vị. Yêu và trân trọng người mình yêu bởi nếu em không yêu tôi thì em đâu có lỗi. Có chăng là vì thần tình yêu đùa ác đã bắn mũi tên tình ái vào trái tim tôi mà không qua trái tim em.
Câu thơ như một lời nhắn nhủ: Em hãy yêu người yêu em chân thành, đằm thắm nhất, mãnh liệt nhất, “như tôi đã yêu em”. Dường như ẩn chứa trong đó còn có chút gì như là ý vị mỉa mai: “Nếu không có sự can thiệp của siêu nhiên thì vị tất nữ nhân vật còn gặp được một tình yêu khác giống như thế. Điều đó có nghĩa là: Không một ai yêu em như tôi đã yêu em!
Câu thơ còn biểu hiện một niềm hi vọng, một khát vọng thánh thiện giàu tính nhân văn: Tình yêu chân thành lẽ nào không được đền đáp. Em cứ đi tìm. Tôi vẫn chờ đợi. Có thể em chưa nhận ra tôi chính là tình yêu thượng đế mang đến cho em nhưng rồi một ngày nào đó em sẽ nhận ra. Đó chính là sự gặp gỡ của những trái tim nhân văn cao cả.
Nhân vật trữ tình đã vượt lên thói ích kỉ tầm thường. Câu thơ đưa tình yêu lên ngôi, làm sáng chói nhân cách của nhân vật trữ tình: yêu tha thiết, mãnh liệt và trong sáng vô cùng, cao thượng vô cùng. Tôi yêu em phảng phất nỗi buồn của mối tình đơn phương nhưng là nỗi buồn trong sáng của một tâm hồn yêu đương chân thành, mãnh liệt, nhân hậu, vị tha. Bài thơ dạy cho người ta biết yêu một cách cao đẹp.
Lời giãi bày tình yêu của Puskin được thể hiện bằng hình thức giản dị mà tinh tế. Chất thơ của bài thơ chính là sự thành thực của người làm thơ “lòng nhân ái làm xúc động lòng người ở vẻ diễm lệ nghệ thuật của nó” (Bi-ê-lin-xki). “Đối tượng tự nó hấp dẫn đến mức chả cần gì đến sự tô vẽ điểm nào cả” (Puskin).
Bài làm mẫu 2Tình yêu không còn là đề tài xa lạ đối với các thi nhân, nó trở thành nguồn cảm hứng dào dạt khiến họ tốn biết bao giấy mực. Yêu và được yêu luôn là niềm mong muốn của mỗi chúng ta. Tuy nhiên không phải yêu thương nào trao đi cũng được đáp lại một cách trọn vẹn. Có thể nói, Puskin đã rất thành công ở việc thể hiện những cung bậc cảm xúc trong tình yêu đơn phương của một chàng trai qua bài thơ “Tôi yêu em”.
Puskin là “Mặt trời của thi ca Nga”. Tài năng của ông được thể hiện trên các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, trường ca, truyện ngụ ngôn, những thể loại mà ông thành công nhất là thơ trữ tình với hơn tám trăm bài thơ. “Tôi yêu em” là tác phẩm nổi tiếng của thi sĩ lừng danh được khơi nguồn từ mối tình cảm đơn phương với nàng A. Ô-lê-nhi-na. Puskin đã cầu hôn nàng vào mùa hè năm 1829 nhưng không được chấp nhận. Đây cũng là nguyên nhân khiến ông viết nên bài thơ này.
Nhan đề bài thơ do Thúy Toàn đặt. Nó ẩn chứa dụng ý và sự tinh tế của người dịch khi không đặt nhan đề là “Anh yêu em” hay “Tôi yêu cô”. “Tôi yêu em” là một nhan đề hợp lí. Bởi lẽ cách xưng hô “Anh – em” quá thân thiết, tình cảm trong khi mối quan hệ của Puskin và Ô-lê-nhi-na không hẳn như vậy còn cách xưng hô “Tôi – cô” lại quá xa lạ, ít bộc lộ cảm xúc. Vì vậy, không có nhan đề nào phù hợp hơn là “Tôi yêu em” để diễn tả mối quan hệ không phải người dưng nhưng cũng không quá gần gũi, tình cảm.
Pu-skin đã khắc họa những giằng xé trong tâm trạng của nhân vật trữ tình bằng những lời thơ giản dị:
Tác giả đã khẳng định tình cảm của mình dành cho cô gái qua cụm từ “Tôi yêu em” mở đầu bài thơ. Đây là thứ tình cảm chân thành, đằm thắm, không chút vụ lợi, toan tính. Chàng trai ấy không mượn những hình ảnh ẩn dụ để bày tỏ tình cảm mà anh lại trực tiếp nói ra những tâm tư trong lòng mình. Khi yêu đơn phương, không phải bất cứ ai cũng có đủ can đảm để nói ra điều đó. Biết rằng tình yêu ấy không được em chấp nhận nhưng nó vẫn bùng cháy trong trái tim “tôi”, khiến “tôi” bồi hồi không yên. Ngọn lửa tình yêu cứ âm ỉ cháy, nó chưa tắt hẳn và cũng chưa “tàn phai” trong tâm hồn của nhân vật trữ tình. Đó là một tình yêu chung thủy chứ không phải thứ tình cảm mua vui, trêu đùa. Vậy nên chàng trai mới có sự vấn vương, không dứt khoát. Tâm trạng này được nhà thơ thể hiện qua các từ ngữ “chừng có thể”, “chưa hẳn”, để khẳng định tình yêu “tôi” dành cho em là sự thật.
Nhưng tình cảm là thứ không thể gượng ép. Chúng ta không thể bắt buộc ai đó yêu mình nếu như bản thân họ không muốn. Chàng trai trong mối tình đơn phương kia cũng như vậy, anh không muốn cô gái vì anh mà phải bận lòng, suy nghĩ hay u buồn vì bất cứ điều gì nữa:
Nhân vật trữ tình đã đưa ra một quyết định mang tính lí trí và đầy sự dứt khoát. Nếu tình yêu của anh không mang lại cho cô gái niềm hạnh phúc mà chỉ khiến cô phải khó xử, băn khoăn thì tốt hơn hết là anh nên chấm dứt tình yêu ấy. Anh sẵn sàng hi sinh tình yêu của mình để đổi lấy sự thanh thản trong tâm hồn của người anh yêu. Hành động của nhân vật thật cao thượng và đáng ngưỡng mộ. Có mấy ai làm được như vậy bởi khi đắm say trong tình yêu trần thế con người ta rất dễ mù quáng, họ không ý thức được hành động của bản thân, thậm chí có thể bất chấp các thủ đoạn để tìm mọi cách chiếm đoạt được người mình yêu mà không quan tâm đến chuyện người ấy thực sự có tình cảm với mình hay không.
Liệu rằng sẽ có bao nhiêu người hành động cao thượng như chàng trai trong bài thơ này? Anh tôn trọng người con gái và nhận lấy những đau khổ, buồn bã về mình. Chắc hẳn anh đã có cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt nhưng vượt lên trên tất cả, anh luôn mong người ấy được hạnh phúc. Nhân vật trữ tình tự chối bỏ tình yêu, chối bỏ những cảm xúc say đắm của mình và nhẫn tâm dập tắt đi ngọn lửa tình đang ấp ủ để cô gái không phải suy tư về anh nữa.
Trong tình yêu luôn tồn tại những trạng thái cảm xúc khác nhau, khi thì nồng nàn, tha thiết, khi lại giận dỗi, hờn ghen:
Vì là tình cảm đơn phương nên nó diễn ra trong sự “âm thầm”, im lặng không được ai khác biết đến và cũng không có nhiều hi vọng, niềm tin vào tương lai. Chàng trai có lòng ghen nhưng cũng chỉ riêng bản thân mình biết và chịu đựng điều đó. Anh yêu cô gái chân thành, mãnh liệt nhưng cũng có lúc “rụt rè”, “hậm hực” bởi không được thể hiện những cảm xúc của bản thân. Tình yêu luôn đi đôi với sự ghen tuông, nó là một trong những biểu hiện của tình yêu đôi lứa. Nhưng nhân vật trữ tình lại ghen trong âm thầm, ghen nhưng không được nói ra mà lại phải chịu những nỗi đau, nỗi tuyệt vọng giày vò, giằng xé tâm can. “Tôi yêu em chân thành như thế, dịu dàng như thế” nhưng không được em đền đáp. Phải chăng chàng trai đang trách móc cô gái? Câu thơ mang nặng nỗi buồn u ám, sự nặng nề trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Dường như, anh đang rơi vào sự tuyệt vọng, bất lực khi không có tư cách gì để thể hiện những trạng thái đó với người mình yêu.
Điệp ngữ “Tôi yêu em” được lặp lại ba lần trong bài thơ có ý nghĩa nhấn mạnh, khẳng định tình cảm của nhân vật trữ tình. Không chỉ nhận lấy những đau khổ, dằn vặt về mình, chàng trai còn chúc phúc cho cô gái sẽ tìm được tình yêu đích thực: “Cầu em được người tình như tôi đã yêu em”.
Khác với suy nghĩ của bạn đọc, chàng trai không hề có ý trách móc cô gái mà anh còn cầu chúc những điều tốt đẹp đến với cô. Mặc dù không có được tình yêu của “em”, không có được trái tim “em” nhưng nhân vật trữ tình luôn mong “em” sẽ tìm được một người yêu thủy chung, chân thành như “tôi đã yêu em”. Lời nguyện cầu ấy đã thể hiện sự cao thượng, vị tha trong con người của chàng trai. Puskin không vì sự ích kỉ của bản thân mà trở nên nhỏ nhen, thù hận. Đó cũng là cách hành xử văn minh mà tất cả chúng ta cảm thấy ngưỡng mộ, khâm phục và cần phải học tập. Đối với tác giả, yêu là niềm hạnh phúc, dù tình yêu ấy có được đáp lại hay không thì tình yêu luôn mang lại những trải nghiệm ý nghĩa.
Bằng ngôn từ giản dị, trong sáng cùng với việc sử dụng điệp từ “Tôi yêu em”, nhà thơ đã khắc họa nỗi buồn của một tâm hồn rực cháy những tình cảm yêu thương chân thành, nhân hậu. Tình yêu của nhân vật trữ tình đã vượt qua cái tầm thường để hướng đến cái cao cả. Đây cũng là lí do để bài thơ “Tôi yêu em” của Puskin được đánh giá là “viên ngọc vô giá trong kho tàng thi ca Nga”.
Bài làm mẫu 3Tình yêu luôn là đề tài bất diệt với thi ca. Mỗi thi sĩ đều có một cái nhìn riêng, đặc biệt về những cung bậc khi yêu. Chúng ta biết đến Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình” với những vần thơ nồng nàn, cháy bỏng, mãnh liệt. Đối với nền văn học Nga thì Puskin được xem là “mặt trời thi ca Nga” với những áng thơ bất hủ về tình yêu. Bài thơ “Tôi yêu em” là một điệp khúc tình yêu với những cung bậc thương nhớ da diết khi yêu. Một bài thơ tình gieo vào lòng người nhiều thổn thức, nhiều mong nhớ và nhiều nuối tiếc cho câu chuyện tình đơn phương của tác giả.
Có thể nói “Tôi yêu em” là lời giãi bày tình cảm một cách chân thành và mãnh liệt nhất, đó là tiếng nói con tim, tiếng gọi của những rung động tha thiết và sâu sắc nhất.
Bài thơ với câu chữ bình dị, gần gũi mà sâu vào trái tim người đọc những xốn xang và dư âm còn mãi.
Một câu thơ cất lên bình dị, chân thành như chính tấm lòng và trái tim của tác giả dành cho người mình yêu thương. Lời thơ chậm rãi, đều đều như có chút gì đó ngượng ngùng, chưa mang ý nghĩa khẳng định. Những từ ngữ “chừng có thể”, “chưa hẳn” dường như còn vương chút gì đó chưa dứt khoát. Có lẽ bởi tác giả sợ lời tỏ tình của mình suồng sã quá khiến cho người ta sợ. Tuy nhiên dù chưa dứt khoát nhưng cũng đã phần nào bộc lộ được tình yêu say mê đã từ lâu lắm rồi, đó là một quá trình yêu và thương có thời gian chứ không hề bồng bột.
Tuy nhiên đến hai câu thơ sau, giọng thơ đột nhiên thay đổi:
Mặc dù tình cảm trong trái tim “tôi” đã rõ nhưng nhân vật trữ tình lại không muốn làm khó đối phương, không muốn để cho đối phương phải khó xử. Đó cũng chính là một trái tim đầy lí trí. Hai câu thơ đầu và hai câu thơ sau được ngắt ra bởi từ “nhưng” vừa có vẻ vô tình nhưng lại phần nào thể hiện sự dứt khoát hơn hết. Nhân vật “tôi” tự ý thức được bản thân mình, dù có chịu ấm ức cũng chịu “không để em phải bận lòng thêm nữa”. Tuy nhiên lúc này nhân vật trữ tình đang trăn trở và thấy chua xót, không biết rằng tâm trạng của người kia như thế nào. Một trái tim đa sầu đa cảm nhưng là một trái tim biết nghĩ cho người khác. Trái tim ấy thật đáng quý và đáng trân trọng biết bao nhiêu. Cảm xúc ở những câu thơ đầu bị dồn nén, không được thoát ra bên ngoài mà trở nên bức bối hơn.
Ở 4 câu thơ sau bỗng nhiên cảm xúc vỡ òa, tràn ra. Có lẽ cảm xúc trong tình yêu không còn giữ kín, không còn bó buộc trong trái tim chật chội nữa. Đã đến lúc nó bật tung ra. Và cụm từ “tôi yêu em” lại được điệp lại một lần nữa càng khẳng định hơn nữa tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái:
Vẫn là tình yêu ấy nhưng giờ nó được tràn ra, nhân vật “tôi” đã giãi bày thành lời. Rằng tình yêu này “thầm lặng”, “không hi vọng” nhưng đó là tình yêu “chân thành”, “đằm thắm”. Nhịp thơ trở nên nhanh và dồn dập hơn, tình yêu cũng trở nên cồn cào và da diết hơn.
Câu thơ cuối được coi là “điểm nhãn” của cả bài thơ, cũng như là “điểm nhãn” trong trái tim của nhân vật “tôi”. Một cách nói vừa thể hiện sự vị tha khi yêu vừa thể hiện sự thông minh và khéo léo trong cách thổ lộ tình cảm. Ý thơ “cầu em được người tình như tôi đã yêu em” thật sâu sắc. Phải chăng nhân vật trữ tình đang tự khẳng định lại tình yêu của mình dành cho “em” là quá lớn và quá chân thành.
Dù tình yêu “âm thầm” không được đền đáp nhưng nhân vật trữ tình vẫn yêu chân thành và yêu tha thiết. Không đòi hỏi điều gì, không hi vọng bất cứ một điều gì. Một thứ tình yêu cao cả và vĩ đại. Tuy nhiên trong tình yêu vẫn luôn có những cung bậc, lúc dịu dàng, đằm thắm, lúc ghen tuông, lúc hờn dỗi. Đó như những nốt trầm bổng tạo nên một bản hợp xướng tuyệt vời trong tình yêu, hay nói cách khác đó chính là gia vị khi yêu không thể thiếu được.
Puskin với một trái tim sống và yêu hết mình đã viết lên những vần thơ vừa bình dị, gần gũi, vừa đằm thắm mượt mà. Những vần thơ chạm đến trái tim của người đọc một cách dữ dội như vậy. “Tôi yêu em” là một bài thơ tình bất hủ, với đầy đủ cung bậc khi yêu đã khiến người nghe có những cảm nhận thật tinh tế và sâu sắc nhất.
Bài làm mẫu 4Puskin được biết đến là đại thi hào của nước Nga, ông không chỉ là nhà văn nhà thơ mà còn là nhà thi sĩ lừng danh, ông có rất nhiều những sáng tác to lớn và để lại cho văn học Nga những dấu ấn mạnh mẽ trong thời đại, Puskin được người đọc biết đến với tác phẩm Tôi yêu em.
Đây là bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ chính cuộc đời của tác giả đây là những bộc lộ sâu sắc để thể hiện được tình yêu của ông đối với nàng, những giây phút tuyệt đẹp trong cuộc đời đã đang thấm nhuần trong từng lời thơ của ông. Mở đầu bài thơ tác giả viết Tôi yêu em… đây đã là những lời bộc lộ về tình cảm của ông đối với người con gái mà ông ta yêu, những cảm xúc mang đậm giá trị khi tình yêu đó của ông là vĩnh hằng, ngọn lửa trong trái tim ông chưa bao giờ phôi phai khi yêu em, khi có em trong vòng tay anh sẽ luôn coi trọng và đốt thêm những ngọn lửa tình đang rực cháy trong trái tim của mỗi con người:
Những lời bộc lộ của tác giả đối với người tình của mình, mang những cảm giác buồn buồn và đậm tâm trạng, nhưng sự chân thành của tác giả về cuộc tình này vẫn vô cùng mạnh mẽ và đầy cảm xúc khi mỗi chúng ta đều thấy được lời bộc lộ ở đoạn mở đầu, nhưng tiếp theo lại là những cảm xúc như đang tuyệt vọng, khi đang đo đếm ngày tháng đã từng yêu, cụm từ chừng có thể như đang nhắc đến những khoảnh khắc không nói thành lời của tác giả. Ngọn lửa trong tâm hồn của tác giả vẫn đang dạt dào, và vẫn cháy bỏng lên những tình yêu sâu sắc và mạnh mẽ nhất đối với tâm hồn của ông. Nhưng không để cho người mình yêu phải buồn hay có những nỗi suy tư ông đã đành lòng ngậm ngùi chịu đựng những cảm xúc mạnh mẽ trong cuộc đời, và để cho tâm hồn của em không phải vấn vương những suy tư và cảm xúc riêng về những điều này, đây là những khoảnh khắc khiến người đọc hình dung mạnh mẽ nhất về nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Tình yêu của tác giả cũng mãnh liệt từ “tắt” đã diễn tả mạnh mẽ và sâu sắc nhất những cảm xúc đó, những cảm xúc mang đậm giá trị về tình yêu thương và sự quan tâm đối với người mà ông đang thầm thương trộm nhớ, đây là những cảm xúc riêng và mang trong trái tim của tác giả những cảm xúc mạnh mẽ và vô tư nhất về tình yêu của mình. Chính những cung bậc của tác giả đã đang thấm nhuần mạnh mẽ cảm xúc và những nỗi nhớ mong về sự hoài đợi và không để người mình yêu buồn đau vì chuyện gì.
Tình yêu thì vẫn đang nảy nở từ “tắt” đã nhấn mạnh sâu sắc được điều đó, và nó mang những cảm xúc lớn lao khi tình yêu đó không được đáp lại với một tình cảm chân thành và đáng quý nhất. Những cảm xúc dạt dào và mang đậm màu sắc của tác giả đã thể hiện được những cảm xúc to lớn và ngọt ngào trong trái tim của tác giả. Những tình cảm không được bộc lộ ra nó vẫn âm thầm bên trong trái tim của tác giả, những điều đó đã mang đậm những giá trị to lớn và mạnh mẽ khi trái tim của người vẫn đang rung động lên những khoảnh khắc dạt dào và mang đậm ý nghĩa nhất đối với tâm hồn của tác giả về chính mình.
Khi cụm từ tôi yêu em được sử dụng với một tần số lớn trong bài nó cũng đủ để nhấn mạnh tình cảm của tác giả đối với cô gái mà mình yêu. Tác giả vẫn đang yêu trong sự thầm lặng, không hy vọng người đó có thể đáp trả được tình cảm của chính mình, những lúc rụt rè không dám biểu lộ là những lúc trái tim của tác giả yếu mềm nhất, và trong lòng có chút ghen tuông và đậm cảm xúc của một người mang trái tim nồng cháy:
Những cảm xúc dạt dào và đậm giá trị nhất đã được biểu lộ trong tác phẩm với những cung bậc mạnh mẽ và mang những màu sắc hương vị của tình yêu. Có thể nói rằng tình yêu của ông đối với người con gái này là vô cùng mạnh mẽ và chân thành, những tình cảm to lớn và giàu giá trị của cảm xúc nhất được thể hiện qua những lời thơ, khi trái tim còn đang có chút lo sợ, nhưng bên trong nó là một tình yêu mạnh mẽ và to lớn đối với người tình.
Tình cảm chân thành, đằm thắm và tình yêu to lớn đã thúc giục mạnh mẽ cảm xúc thăng hoa của tác giả trong mỗi trang thơ ca, trái tim bao la của tác giả cũng được thể hiện mạnh mẽ ở đây, những tình cảm to lớn mà tác giả dành cho người mình yêu, để lại những cảm xúc thiêng liêng trong lòng mỗi người đọc, bởi nó mang một giá trị to lớn và mạnh mẽ nhất đối với con người, tình cảm đó là sự thiêng liêng vô bờ bến trong tình yêu. Cảm xúc và những nỗi nhớ mong được được dạt dào và thấm đẫm trong trái tim của mỗi con người.
Với những từ ngữ chất phát giản dị nhưng nó đã đủ để lột tả được những lời thầm kín và sâu lặng của tác giả đối với người con gái mà ông yêu, dù tình yêu đó là bên trong tâm hồn, không được bộc lộ ra bên ngoài nhưng nó đủ để cho thấy tình yêu của tác giả thật mạnh mẽ và to lớn đến vô ngần.
Tình cảm mặn nồng và da diết đã được thể hiện một cách sâu sắc, có thể thấy tình yêu đó đang dần biểu lộ những dòng cảm xúc sâu lắng và da diết nhất, trong tâm hồn của mỗi con người, biết bao nhiêu giá trị và ý nghĩa của cuộc sống luôn ngập tràn và da diết trên biết bao nhiêu cảm xúc ngọt ngào, và tình cảm của chính tác giả, biết được những cảm xúc đó tác giả dường như đang ngập tràn và mang đậm biết bao nhiêu giá trị của tình yêu. Nỗi nhớ mong luôn được thể hiện một cách sâu lắng và ngọt ngào nhất, những cảm xúc đó đang dần được mở rộng và nâng lên trên nền không gian của mình những thiên uyển của cuộc đời.
Trái tim đang yêu vẫn đang rung động lên những cảm xúc và tình cảm đó đã dạt dào và sống động lên trong từng trang giấy và ngập tràn cảm xúc, tình yêu sâu đậm và mang màu sắc tươi tắn nó đã đẩy mạnh và xoáy sâu vào trong tâm hồn của tác giả, những cảm xúc của chính mình, những cảm xúc đó đã được thể hiện một cách ngọt ngào và mang màu sắc nhất, chúng ta có thể nhìn thấy được tình cảm yêu thương và sự đằm thắm đang dần biểu lộ trong chính cuộc đời và sự nghiệp của tác giả, cảm xúc đó đã da diết và chân thành nhất. Những giây phút được mở trái tim yêu thương ra để biểu lộ tác giả dường như đang sống những năm tháng hạnh phúc và có giá trị nhất. Tác giả đã thể hiện được cảm xúc của mình, qua những cung bậc nhẹ nhàng nó mang dấu ấn to lớn và có điều cần thiết nhất trong cuộc đời của mỗi người.
Advertisement
Bài thơ đã mang đậm màu sắc yêu thương và tình cảm đó rất chân thành và da diết trong cuộc đời của mỗi con người.
Bài làm mẫu 5Tình yêu là một đề tài hấp dẫn, cuốn hút trong cả văn học Việt Nam và thế giới, là nguồn cảm hứng sáng tạo không bao giờ vơi cạn. Với đề tài này, Puskin, “mặt trời của thi ca” nước Nga đã đóng góp một tiếng nói riêng, một giọng điệu riêng. Bài thơ “Tôi yêu em” của ông gây xúc động cho người đọc bởi giá trị tinh thần, như Bie – lin – xki đã từng nói: “Đây là tình cảm của con người từng trải và ta cũng thấy ở đây lòng nhân ái làm lay động lòng người.” Mở đầu bằng lời ngỏ “Tôi yêu em”, Puskin giãi bày lòng mình với một tình yêu trinh nguyên nồng cháy:
Dịch giả khéo léo lựa chọn nhân xưng “tôi-em”, không quá khách sáo, trang trọng, không quá xô bồ, thân thiết, “tôi yêu em” thể hiện mối quan hệ vừa gần vừa xa, vừa dang dở vẫn nguyên vẹn, thể hiện rõ sự đằm thắm, tha thiết giữa hai nhân vật. Nhân vật trữ tình giãi bày cụ thể tâm trạng, tình cảm của mình qua những chi tiết “ngọn lửa tình, bận lòng, u hoài”, cho thấy một xúc cảm giằng xé, đấu tranh giữa lý trí và tình cảm.
Lý trí nói rằng “không để em bận lòng thêm nữa”, nhưng con tim yêu thì “ chưa hẳn tàn phai”. Bốn câu thơ đầu khiến người đọc cảm nhận được tâm hồn của nhân vật tôi: Say mê và chối bỏ say mê, ngọn lửa tình rực cháy và chấp nhận dập tắt ngọn lửa ấy. Tình yêu cao thượng thôi thúc nhân vật tôi rút lui vì không muốn em phải bận lòng vì không muốn thì em u sầu. Một trái tim vị tha, một tình yêu cao thượng. Người đọc dường như đang cảm thấy một tình yêu tuy sai trái tuy đơn phương nhưng vô cùng cháy bỏng.
Tiếp nối mạch cảm xúc, nhà thơ lại bày tỏ lòng mình: tôi yêu em. Đây không chỉ là điệp khúc tình yêu mà còn được sắp xếp như cơn sóng trào, ngày càng mãnh liệt, ngày càng dồn dập.
Nhân vật tôi trực tiếp giãi bày những cung bậc tình yêu của mình, chấp nhận dập tắt ngọn lửa tình say mê. Vì em, dường như những đau đớn ấy cũng trở nên thanh thản. “Âm thầm, không hy vọng, rụt rè, hậm hực lòng ghen”, nhân vật tôi vẫn không giấu được những xúc cảm bình thường trong trái tim mình: Cũng giận hờn, cũng buồn thương, cũng ghen tuông. Thứ tình cảm rất đời, cũng như bao trái tim đang yêu khác. Nói ra được cảm xúc của mình cũng đau khổ như việc phải từ bỏ em. Nói về nỗi ghen tuông trong tình yêu, Puskin từng viết:
Chính ông cũng phải thừa nhận rằng, ghen tuông giống như nỗi buồn đen tối, làm mụ mẫm đầu óc. Nhưng vượt lên trên tất cả, ông chỉ muốn:
Lẽ thường trong tình yêu là sự ích kỷ, ghen tuông là biểu hiện cao độ của sự ích kỷ đó. Ở đây, nhân vật tôi đã vượt qua thói thường ấy, hướng tới một trái tim trong sáng. Điều này thể hiện qua lời chúc phúc chân thành. Điều quan trọng nhất không phải tình yêu của tôi mà là trái tim em có cảm thấy thoải mái hay không. Lòng nhân ái trong tình yêu đã đem đến cảm xúc vĩ đại.
Có người cho rằng, câu thơ cuối là sự chối bỏ tình yêu, có người lại nghĩ, đó là sự vun đắp. Phải chăng, nhân vật tôi muốn nhắn nhủ với người tình rằng hãy sáng suốt chọn đúng người tìm được trái tim yêu thương chân thành, đằm thắm. Có lẽ đây là lời tỏ tình vừa tế nhị, vừa kiêu hãnh.
Bài thơ khép lại với dòng cảm xúc vừa buồn thương vừa mãnh liệt, thể hiện một tình yêu chân thật, cao quý. Tôi yêu em là một lời nói nhân văn, là tiếng lòng của bao nhiêu đôi trai gái có duyên mà không có phận. Tuy vậy, tình yêu vẫn là món ăn tuyệt vời nhất cho tâm hồn con người.
Phân tích bài thơ Tôi yêu em đầy đủ Bài làm mẫu 1Thơ là tiếng nói của tâm hồn, tiếng nói của cõi lòng, của trái tim. Thơ nói hộ lòng người những điều khó nói, những rung động thầm kín trong xúc cảm, đặc biệt trong tình yêu. Puskin lại được tôn vinh là “mặt trời vĩ đại của thi ca Nga”. Một trong những áng thơ nổi tiếng của ông viết về đề tài tình yêu là bài Tôi yêu em, một trong những bài thơ tình hay nhất.
Nhận xét về màu sắc chung của thơ trữ tình Puskin, nhà mỹ học Bi-lê-lin- xki đã cho rằng, đó chính là “vẻ đẹp nội tâm của con người và lòng nhân ái vuốt ve tâm hồn”. Và Tôi yêu em phải chăng là một bài thơ mang đậm màu sắc ấy?
Bài thơ gồm hai khổ thơ (theo bản dịch tiếng Việt) diễn tả trung thực tâm trạng của nhân vật trữ tình (tôi) trong tình yêu. Nói lên niềm mong mỏi hi vọng người mình yêu được hạnh phúc. Và phải chăng đó là vẻ đẹp cao thượng, thánh thiện nhất.
Mỗi lời tâm sự cũng là lời trái tim muốn nói. Tình yêu này đã nung nấu rất lâu rồi. “Ngọn lửa tình” đã tắt nhưng “chưa hẳn đã tàn phai”, dù cho tình yêu không được em đáp lại.
Bài thơ dựa trên câu chuyện có thật của chính tác giả khi sống ở Xanh Pê-téc-bua. Puskin thường hay lui tới nhà vị chủ tịch viện Hàn lâm nghệ thuật Nga để gặp những người làm nghệ thuật và cũng vì cô con gái chủ nhà – nàng Ô-lê-nhi-a xinh đẹp. Nhưng khi nhà thơ ngỏ lời cầu hôn thì nàng đã từ chối.
Tại sao mở đầu bài thơ, tác giả lại viết: “Tôi yêu em đến nay chừng có thể – Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai”? Có gì đáng nói đâu nếu không có hai câu thơ tiếp theo:
Nếu ở vế trước chữ “nhưng” là một sự phũ phàng, tình yêu tôi vẫn dành cho em dù em không đáp lại tình tôi. Em quá hờ hững, quá vô tình. Đằng sau chữ “nhưng” là cả một sự cao thượng. Theo lẽ thường, khi bị từ chối lời cầu hôn, người ta sẽ không dễ dàng từ bỏ người mình yêu. Người ta vẫn theo đuổi bằng nhiều cách trước khi tuyệt vọng hoàn toàn. Nhưng ở đây Puskin lại “không để em bận lòng thêm nữa”, vì tôi, vì tình yêu của tôi. “Tôi yêu em”, nhưng tôi sẽ không để em buồn lòng, dù thực chất người đang buồn lòng là “tôi”. Vì thế mà tôi không thể để cho tâm hồn ấy phải “gợn bóng u hoài”. Đó là một tình cảm cao thượng, đầy tính vị tha.
Đọc toàn bộ khổ thơ đầu, ta thấy cảm xúc dường như đang bị dồn nén để cho một cảm xúc khác trồi lên. Nhân vật tôi hiện lên với một tấm lòng yêu thương rộng lớn. Có thể thấy lời thơ như những lời tâm sự của tác giả. Tâm sự với người mình yêu, tâm sự với chính mình. Tâm trạng của nhân vật trữ tình có thể nào khác hơn là tâm trạng của chính thi nhân?
Mạch thơ tự sự trữ tình tiếp tục chuyển tiếp sang khổ thơ thứ hai. Cũng là cảm xúc ấy:
Cái tình yêu ban đầu còn rụt rè, thầm yêu trộm nhớ ấy cũng tỏ ra có phần ích kỉ. Nhưng cái ích kỉ thật đáng yêu.
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen
Tình yêu ban đầu đối với con người dân tộc nào cũng vậy, cũng có hậm hực cũng có ghen tuông, cũng rụt rè, e lệ, nhưng ấy chính là những phẩm chất mãnh liệt thiết tha và cao thượng của tình yêu.
Tôi yêu em âm thầm không hi vọng.
Lời thú nhận của thi nhân cũng chính là cõi lòng của mọi con người trong tình yêu. Nhưng đó là tình yêu đẹp, tình yêu biết đặt người mình yêu lên trên những khát khao mãnh liệt của chính bản thân mình.
Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm.
Đây lại là lời thú nhận nữa, trực tiếp và rõ ràng. Lời nói của chính trái tim đang run rẩy vì yêu, một trái tim chân thành nhất. Đó là một lời giãi bày bộc bạch tâm trạng của “tôi”, cũng là lời tâm sự chân thành để người mình yêu hiểu được trái tim mình. Nhưng cũng như câu thơ trên, ở đây, tình cảm ấy lại một lần nữa nhường chỗ cho sự cao cả: Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.
Sự cao thượng, thánh thiện của tình yêu đến đây dường như chợt bừng sáng. Tình yêu đến đây không còn sự nhỏ nhen, ích kỉ. Tình yêu ấy trở nên cao đẹp biết nhường nào: hi sinh tình yêu của mình để cho người mình yêu hạnh phúc.
Về cách hiểu câu thơ này, có ý kiến cho rằng: đó là lời thách thức kiêu bạc. Nhân vật tôi muốn nói với em rằng liệu có ai yêu em hơn tôi, em có được người tình nào xứng đáng hơn tôi? Trong muôn nẻo đường của tình yêu, cách hiểu này không phải không hợp lí. Nhưng nêu lí giải câu thơ như vậy thì Tôi yêu em không thể nào được xem là một trong những bài thơ tình hay nhất.
Cho nên, có thể nói câu thơ cuối chính là điểm sáng của bài thơ. Nó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn con người và tấm lòng nhân ái của con người trong tình yêu. Một tình yêu chân thành, đằm thắm sẽ nâng đỡ thanh lọc tâm hồn con người. Đó cũng chính là vẻ đẹp cao thượng trong tình yêu của tác giả.
Có người nói rằng: sự chân thành là chìa khóa mở cửa vào trái tim người khác. Và điều đó đúng trong trường hợp của Puskin. Tôi yêu em đã đi vào lòng người đọc như những bản tình ca hay nhất cho mọi thời đại. Và Puskin mãi là “mùa xuân của văn học Nga”, là “mặt trời của thi ca Nga”.
…………..
Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Của Nguyễn Trãi Dàn Ý &Amp; 17 Bài Văn Mẫu Lớp 10 Hay Nhất
I. Mở bài:
– Giới thiệu về tác gia Nguyễn Trãi: Là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, nhà văn nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.
– Khái quát về tác phẩm: Là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc.
II. Thân bài:
a. Tiền đề lý luận
* Tư tưởng nhân nghĩa
– “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí.
– “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi
Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” – làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, hạnh phúc
Cụ thể hóa với nội dung mới đó là trừ bạo – vì nhân dân diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
→ Với nét nghĩa tiến bộ, mới mẻ Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh đồng thời phân biệt rõ ràng ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.
→ Tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn – là cuộc khởi nghĩa nhân nghĩa, vì cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.
* Chân lý về độc lập dân tộc
– Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các dẫn chứng thuyết phục: Nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ riêng biệt, phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
→ Bằng cách liệt kê tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập, đó là chân lý không thể chối cãi.
– Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
– Thái độ của tác giả:
So sánh các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại của Trung Hoa.
Gọi các vị vua Đại Việt là “đế”: Trước nay hoàng đế phương Bắc chỉ xem vua nước Việt là Vương.
→ Thể hiện ý thức về chủ quyền độc lập cao độ của tác giả.
– Sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lý: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã,…
→ Là lời cảnh cáo đanh thép, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào bởi những chiến công của nhân dân Đại Việt.
b. Soi chiếu lý luận vào thực tiễn.
* Tội ác của giặc Minh.
– Tội ác xâm lược: Từ “nhân, thừa cơ” cho thấy sự cơ hội, thủ đoạn của giặc Minh, chúng mượn chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để gây chiến tranh xâm lược nước ta.
→ Vạch trần luận điệp bịp bợm, cướp nước của giặc Minh.
– Tội ác với nhân dân:
Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ
Bóc lột bằng thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật nước ta
Phá hoại môi trường, tiêu diệt sự sống
Bóc lột sức lao động, phá hoại sản xuất.
→ Sử dụng biện pháp liệt kê tố cáo những tội ác dã man của giặc.
→ Gợi hình ảnh đáng thương, tội nghiệp, khổ đau của nhân dân
→ Nỗi xót xa, đau đớn, thương cảm đối với nhân dân, sự căm phẫn đối với kẻ thù của tác giả.
* Lòng căm thù giặc của nhân dân.
– Hình ảnh phóng đại “trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi” lấy cái vô cùng của tự nhiên để nói về tội ác của giặc Minh.
– Câu hỏi tu từ “lẽ nào…chịu được”: Tội ác không thể dung thứ của giặc.
→ Thái độ căm phẫn, uất nghẹn không bao giờ tha thứ của nhân dân ta
⇒ Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh
c. Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
* Hình tượng người anh hùng Lê Lợi
– Nguồn gốc xuất thân: là người nông dân áo vải “chốn hoang dã nương mình”
– Lựa chọn căn cứ khởi nghĩa: “Núi Lam Sơn dấy nghĩa”
– Có lòng căm thù giặc sâu sắc, sục sôi: “Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống…”
– Có lý tưởng, hoài bão lớn lao, biết trọng dụng người tài: “Tấm lòng cứu nước…dành phía tả”.
– Có lòng quyết tâm để thực hiện lí tưởng lớn “Đau lòng nhức óc…nếm mật nằm gai…suy xét đã tinh”.
→ Hình tượng Lê lợi vừa là con người bình dị đời thường, vừa là người anh hùng khởi nghĩa. Hình tượng Lê Lợi cũng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi cho thấy tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa.
* Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
– Giai đoạn đầu cuộc khởi nghĩa:
Khó khăn về quân trang, lương thực: lương hết mấy tuần, quân không một đội
Tinh thần của quân và dân: Gắng chí, quyết tâm (Ta gắng chí khắc phục gian nan), đồng lòng, đoàn kết (sử dụng 2 điện tích dựng cần trúc, hòa nước sông)
→ Giai đoạn đầu đầy khó khăn, thử thách, nhờ sự lạc quan, đồng lòng, đoàn kết, biết dựa vào dân đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua mọi khó khăn.
– Giai đoạn phản công và giành thắng lợi
Những chiến thắng ban đầu: Trận Bạch Đằng, miền Trà Lân tạo thanh thanh thế cho nghĩa quân và trở thành nỗi khiếp đảm cho kẻ thù “sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay”.
Nghĩa quân liên tiếp giành nhiều thắng lợi to lớn, tiêu diệt giặc ở những thành mà chúng chiếm đóng “Trần Trí, Sơn Thọ…thoát thân” và tiêu diệt quân chi viện của giặc “Đinh Mùi…tự vẫn”.
→ Biện pháp liệt kê tái hiện không khí chiến trận máu lửa, sục sôi với những chiến thắng giòn giã liên tiếp của quân ta cũng như sự thất bại nhục nhã, ê chề của địch.
+ Sự thất bại nhục nhã, thảm thương của giặc Minh:
Nghệ thuật cường điệu, phóng đại cực tả sự thiệt hại, tổn thất to lớn của quân thù. Đó là những thất bại nhục nhã, ê chề “thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm, bêu đầu, bỏ mạng,..”.
Thất bại thảm hại, khốn đốn, cửi áo giáp xin hàng “Thượng thư Hoàng Phúc…xin cứu mạng”
Tướng giặc tham sống sợ chết xin hàng.
+ Khí thế vang dội và cách ứng xử của quân dân ta:
Cách nói cường điệu, phóng đại: “Gươm mài đá đá núi cũng mòn, voi uống nước nước sông phải cạn, đánh một trận….”, ca ngợi khí thế hào sảng, ngút trời của quân ta.
Thực thi chính sách nhân nghĩa “Thần vũ chẳng giết hại…nghỉ sức”. Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, nó vừa khiến ta thấy được tính chất chính nghĩa của nghĩa quân vừa là sự chuẩn bị cần thiết cho chính sách ngoại giao sau này.
→ Nghệ thuật đối lập đã thể hiện rõ những nét đối cực trong cuộc chiến giữa ta và địch, từ tính chất cuộc chiến cho đến khí thế, sức mạnh, những chiến công và cách ứng xử
→ Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của tác giả.
d. Niềm tin, ý chí.
– Giọng điệu trang trọng, hào sảng cho thấy niềm tin và những suy tư sâu lắng của tác giả
– Sử dụng những hình ảnh về tương lai đất nước như “xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ đây đổi mới, thái bình vững chắc”, các hình ảnh của vũ trụ “kiền khôn, nhật nguyệt, ngàn thu sạch làu”
→ Đất nước, vũ trụ đang vận động theo hướng tươi sáng, tốt đẹp hơn.
→ Đây không chỉ là lời tuyên bố kết thúc còn là niềm tin tưởng, lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước.
e. Nghệ thuật
– Sử dụng sáng tạo và thành công thể cáo
– Kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính trị và yếu tố văn chương.
– Sử dụng các biện pháp liệt kê, phóng đại, đối lập,..
III. Kết bài:
Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Liên hệ với “Nam quốc sơn hà”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận tài ba của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn chính luận của Nguyễn Trãi không thể nào chúng ta không nhắc tới “Bình Ngô đại cáo” – một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết ra sau cuộc kháng chiến chống quân Minh. Tác phẩm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và được xem là “Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc”.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ bắt nguồn từ Trung Quốc với bố cục và kết cấu chặt chẽ. Mở đầu, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu ra luận đề chính nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho toàn bộ bài cáo của mình.
Chỉ với hai câu mở đầu bài cáo của mình, tác giả đã nêu lên tư tưởng xuyên suốt tác phẩm đó chính là nhân nghĩa – một phạm trù tư tưởng bắt nguồn từ Nho giáo, dùng để thể hiện cách ứng xử và những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Và với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đó bắt nguồn từ tư tưởng “yên dân” “trừ bạo”. Có thể nói rằng đây chính là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, từ lòng yêu thương nhân dân và vì nhân dân mà diệt bạo, mà đánh đuổi các thế lực xâm lược. Đồng thời, cũng trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên những chân lý độc lập khách quan, là cơ sở lý luận bền vững để khẳng định độc lập dân tộc cũng như nói lên tư tưởng của bài cáo.
Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một hình ảnh vô cùng chân thực và rõ ràng những truyền thống vẻ vang từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Trước hơn hết, nước ta có một nền văn hiến lâu đời, phong tục Bắc Nam từ ngàn năm. Đồng thời, nước ta còn là nước có bờ cõi, lãnh thổ riêng, được mọi người thừa nhận. Đặc biệt hơn cả, thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của nuowsc ta với các triều đại phương Bắc, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại, anh hùng ta ngang hàng với các triều đại phương Bắc, điều đó không chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi.Không dừng lại ở đó, để nêu lên chân lý rõ ràng cho nền độc lập nước ta, tác giả còn tái hiện lại vẻ hào hùng với những chiến thắng vang dội khắp non sông của quân và dân ta trong suốt thời kỳ lịch sử trước đó.
Thêm vào đó, từ cơ sở luận đề chính đã nêu, trong những câu tiếp theo của bài cáo, Nguyễn Trãi đã đi sâu hơn để vạch rõ những tội trạng man rợ, gian ác của kẻ thù. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh đối với nước ta.
Như vậy, chỉ với bốn câu văn song tác giả đã vạch rõ cho người đọc âm mưu xâm lược của giặc Minh. Quân Minh đã lợi dụng tình hình hỗn loạn trong nước ta dưới thời nhà Hồ, với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ”, bọn chúng đã lợi dụng tiến vào và thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, không chỉ vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, tác giả còn tố cáo, vạch trần những hành động, tội ác man rợ của giặc trên hầu hết tất cả các lĩnh vực bằng hình ảnh, từ ngữ phong phú. Tội ác đầu tiên của giặc Minh đã được tác giả kể ra đó chính là tàn sát, giết hại những người dân vô tội.
Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, tác giả đã vạch rõ những hành động giết người man rợ, tàn ác của giặc. Ngay đến cả những “dân đen”, “con đỏ” – những người vô tội chúng cũng không nương tha. Tất cả những điều đó đã thể hiện sự tàn ác của bọn giặc. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát những người dân vô tội bằng cách đẩy vào những nơi rừng thiêng, nước độc với đầy rẫy những hiểm nguy thường trực không biết có ngày nào trở lại hay không.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.
Đồng thời, tội ác của bọn giặc còn được thể hiện qua những chính sách thuế khóa nặng nề, vô lý cùng với những chính sách hủy hoại môi trường sống, cảnh quan thiên nhiên, tiêu diệt sự sống của vạn vật trên đất nước.
Như vậy, với hàng loạt các hình ảnh tả thực, giàu tính biểu tượng, đoạn hai của bài cáo như một bản cáo trạng đanh thép mà ở đó, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch ra những tội ác, những hành động man rợ, ghê người của bọn giặc Minh xâm lược. Và để rồi tất cả những tội ác đó được giác giải khái quát lại trong câu thơ giàu tính khái quát và biểu tượng. Đồng thời, qua những lời thơ ấy cũng đã phần nào giúp chúng ta thấy được thái độ căm thù đến tột cùng của tác giả.
Không chỉ dừng lại ở việc vạch ra tội ác, “Bình Ngô đại cáo” còn tái hiện lại một cách chân thực quá trình kháng chiến và giành lấy thắng lợi của quân và dân ta. Mở đầu cho đoạn văn chính là hình ảnh vị chủ tướng, người anh hùng Lê Lợi:
Đại từ “ta” đặt ở đầu đoạn văn như một lời khẳng định chắc nịch, thể hiện rõ lai lịch, nguồn gốc xuân thân của anh hùng Lê Lợi. Xuất thân từ nhân dân, nên chắc có lẽ hơn ai hết Lê Lợi hiểu được những nhọc nhằn và cả sự căm phẫn giặc sâu sắc của nhân dân ta – “Căm thù giặc thề không cùng chung sống”. Nhưng người anh hùng đó không chỉ có căm thù giặc sâu sắc mà còn mang trong mình bao nỗi niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn gì giận” để suy tính con đường đánh đuổi quân xâm lược và cuối cùng người anh hùng ấy đã dấy binh khởi nghĩa, mang theo trong mình trọng trách cao cả và niềm tin thắng lợi. Song, không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng Lê Lợi, đoạn ba của bài cáo còn tái hiện lại những khó khăn, thử thách gian khổ và cả những chiến thắng vang dội của dân tộc ta. Trước hết, trong buổi đầu khởi nghĩa, quân ta đã gặp những muôn vàn khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực. Đó là những ngày quân giặc còn rất mạnh, nhân tài của ta còn nhiều hạn chế “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”…Thế nhưng, với tất cả ý chí, lòng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định “đem đại nghĩa để thắng hung tàn” “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân của ta đã vượt qua muôn vàn những thách thức để đạt được nhiều thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Mở đầu của những chiến đông ấy là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần trí, Sơn Thọ, Lý An,…và hàng loạt những chiến thắng cứ thế nối tiếp nhau.
Như vậy, trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc hình chủ tướng Lê Lợi cùng những thử thách mà quân và dân ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Đặc biệt, sau khi chiến thắng, nghĩa quân ta của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng con đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư tưởng, luận điểm chính nghĩa mà quân của ta trọn đời vững tin. Và để rồi, trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối của bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, hòa bình cho dân tộc.
Với giọng văn hùng hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi được tuyên bố rộng rãi tới tất cả mọi người. Lời tuyên ngôn ất không chỉ là lời khẳng định về nền độc lập, hòa bình, thống nhất của dân tộc mà qua đó còn thể hiện thái độ ca ngợi và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của đất nước, của dân tộc khi bước vào một thời kỳ mới.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và trữ tình. Trải qua bao nhiêu ngàn năm phát triển lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa to lớn của bài cáo này vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay.
Nguyễn Trãi là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học trung đại Việt Nam nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học độc đáo, có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc mọi thế hệ và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm như thế. “Bình Ngô đại cáo” ra đời sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân minh xâm lược. Tác phẩm không chỉ là một văn kiện lịch sử tuyên bố nền độc lập của dân tộc mà nó còn là áng văn yêu nước, áng văn chính luận xuất sắc của nền văn học nước ta.
Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo nêu lên luận đề chính nghĩa, làm cơ sở, nền tảng cho chân lí độc lập dân tộc.
Như chúng ta đã biết, “nhân nghĩa” là một trong số những phạm trù tư tưởng quen thuộc và gần gũi của Nho giáo, nó được dùng để nhắc tới mối quan hệ, cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức. Với Nguyễn Trãi, “việc nhân nghĩa” phải gắn liền với việc “yên dân” bởi ông luôn “lấy dân làm gốc”, làm nền tảng cho mọi hành động, việc làm của mình. Đặc biệt, trong bối cảnh quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi khẳng định, muốn “yên dân” thì trước hơn hết phải lo “trừ bạo” nghĩa là phải đánh đuổi quân xâm lược, những kẻ đang đàn áp nhân dân và đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, cơ cực. Như vậy, với hai câu thơ mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tiền đề tư tưởng cho toàn bộ tác phẩm, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng ấy luôn lấy dân làm gốc, xét đến cùng đây là một tư tưởng tiến bộ và mới mẻ của ông. Thêm vào đó, trong phần mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nêu lên chân lí khách quan để khẳng định nền độc lập của dân tộc ta từ bao đời nay.
Dường như, đoạn văn đã gợi lại trong chúng ta những truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng. Đồng thời, với lối so sánh các triều đại phong kiến của nước Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà nó còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thống văn hiến từ ngàn năm. Đồng thời, để khẳng định chân lí độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã liệt kê, kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó.
Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợn của giặc Minh. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh.
Lợi dụng tình hình rối ren trong nước của nhà Hồ, giặc Minh với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để lừa bịp nhân dân, chúng đã tiến vào xâm lược nước ta. Để rồi, sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man và dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã lật mặt, vạch rõ hàng loạt tội ác không thể tha thứ của giặc Minh. Chúng đã tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.
Bọn giặc Minh thật tàn ác biết bao, ngay đến cả “dân đen”, “con đỏ” chúng cũng không chịu tha. Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu dường như đã lột tả đến tột cùng sự tàn sát man rợ, giết người không ghê tay của bọn chúng. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy họ vào những noi đầy rẫy những hiểm nguy, nơi mà khi đã đi rồi thì rất khó để có thể sống sót để trở về.
Đồng thời, tội ác của giặc Minh còn ở đặt lên đầu nhân dân những chính sách thuế khóa nặng nề, và vô lí và không dừng lại ở đó, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên.
Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh chân thực, rõ nét cùng việc sử dụng phép đối lập giữa tội ác của kẻ thù với nỗi đau thống khổ của nhân dân và giọng văn đanh thép, hùng hồn, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng về những tội ác man rợ của kẻ giặc và bản cáo trạng ấy khép lại bằng một hình ảnh so sánh giàu sức khái quát và đầy ám ảnh về tội ác của chúng.
Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi.
Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân. Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa. Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.
Trọn hay:
Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy. Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp:
Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ.
Cuối cùng, trên cơ sở luận đề chính nghĩa và thực tiễn của cuộc chiến đấu đoạn cuối của bài cáo đã lên tiếng tuyên bố nền hòa bình, độc lập của dân tộc.
Với giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc, lời tuyên bố độc lập được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể mọi người. Lời tuyên bố ấy không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.
Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.
Hiện tượng văn, sử, triết bất phân là đặc trưng của nền văn học trung đại không chỉ Việt Nam mà còn là xu hướng chung của thế giới. Thế nên, tìm hiểu những tác phẩm văn học trung đại ta nhìn thấy từng dấu ấn lịch sử hiện ra rõ nét. Trong nhiều tác phẩm sử vẫn tìm thấy phong cách của văn chương và ngược lại trong văn chương vẫn mang đậm lối kể của sử và cách nhìn cuộc đời của triết. Cũng giống như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo đánh dấu một chặng đường lịch sử trọng đại của nước nhà. Tuy nhiên khi Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không nằm ở giai đoạn cả nước chuẩn bị kháng chiến mà là khi vua Lê đã đánh đuổi được ngoại xâm, giành lấy độc lập cho Đại Việt. Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn thay lời Bình Định vương Lê Lợi tuyên cáo với toàn dân về chiến thắng vẻ vang trước quân Minh đồng thời cũng là khẳng định nền độc lập của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Cuối năm 1427 khi đất nước đã sạch bóng quân thù đồng thời cũng là lúc hàng loạt những chính sách đối nội, đối ngoại được thực hiện nhằm khiến cho nhân dân trong nước và triều đại phương Bắc phải thừa nhận tính chất chính thống của vương triều mới. Đây chính là lúc triều đại mới cần có tiếng nói hợp pháp nhằm bố cáo với toàn dân và xác lập chủ quyền. Suốt mấy mươi năm chịu ách nô lệ của nhà Minh cùng với quá khứ Bắc thuộc cứ mãi ám ảnh day dứt trong tâm trí người Việt, lại thêm nhân dân ta mất lòng tin với triều đại trước đó nên chẳng còn mối quan hệ gắn bó với nhà nước phong kiến. Lúc này đây, nhiệm vụ quan trọng của Nguyễn Trãi là phải chuyển tải được niềm tin đối với đất nước, triều đại mới, niềm tự hào với truyền thống dân tộc.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi không dừng lại ở nhiệm vụ của bản tuyên ngôn độc lập mà còn là lời đanh thép khẳng định nhân quyền, chủ quyền.
Cáo là thể văn nghị luận cổ, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả của một sự nghiệp để mọi người cùng biết. Cáo phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu. Bình Ngô đại cáo được viết theo bố cục của một bài cáo: nêu luận đề chính nghĩa, kể tội ác của giặc, tổng kết quá trình chinh phạt, tuyên cáo hòa bình, thành lập triều đại mới. Đại cáo không chỉ có nghĩa là một bài cáo có tầm vóc lớn, mang giá trị lịch sử cao mà Nguyễn Trãi còn ngầm so sánh đầy tự hào với các bản cáo mẫu mực của Trung Quốc “Thang cáo”, Vũ cáo”.
Để hiểu rõ ý nghĩa nhan đề Bình Ngô đại cáo cần quan tâm đến hàm ý trong “bình Ngô”. “Ngô” ở đây thường được hiểu là chỉ chung có các triều đại phong kiến phương Bắc, Ngô còn gợi nỗi đau và sự căm phẫn của nhân dân ta về tội ác mà bọn Đông Ngô đã gây ra trong 1000 năm Bắc thuộc. Như vậy có thể tổng hợp lại “Bình Ngô đại cáo” là tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên quân xâm lược, công bố sự ra đời của triều đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc.
Bình Ngô đại cáo trước hết là bản tuyên ngôn về nhân quyền, dân quyền của đất nước. Ngay ở phần đầu tiên của bản cáo, Nguyễn Trãi đã đặc biệt chú ý đến việc xây dựng nên luận đề chính nghĩa. Luận đề này dựa trên mối quan hệ thống nhất giữa ba yếu tố: nhân nghĩa – dân – nước. Tư tưởng “nhân nghĩa” bắt nguồn từ Nho giáo đề cao mối quan hệ giữa người với người dựa trên lòng yêu thương con người và đạo lý làm người. Nguyễn Trãi kế thừa những tư tưởng tích cực của Nho giáo nhưng không đề cao vai trò người quân tử mà hướng đến nhân dân. Với ông, việc nhân nghĩa là việc làm đem đến lợi ích cho nhân dân, bảo vệ nhân dân. Góc nhìn tích cực này so với thời đại phong kiến thật đáng trân trọng. Điều này cũng mở ra những chuyển biến tích cực trong quan niệm về vai trò của nhân dân đối với đất nước.
Nghĩa quân trừ bạo tàn trước hết vì sự yên bình của nhân dân. Dựa vào dân là dựa vào chính nghĩa, có chính nghĩa chắc chắn sẽ tất thắng. Đây chính là tư tưởng chủ đạo trong giai đoạn kháng chiến chống quân Minh. Nguyễn Trãi đã rất khéo khi đem tư tưởng “yên dân” trong đoạn mở đầu làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm để tăng sức thuyết phục cho bài cáo.
Đâu chỉ có những nhận thức sâu sắc về ý nghĩa lịch sử của nhân dân, Nguyễn Trãi còn đưa ra những quan niệm về tổ quốc dựa trên sự hợp nhất giữa các yếu tố: văn hiến, địa lý, phong tục, chính trị, nhân tài, truyền thống lịch sử.
Quan niệm về chủ quyền của một quốc gia, dân tộc đã được nhắc đến trước đó qua Nam quốc sơn hà. Tuy nhiên, giai đoạn trước chủ quyền quốc gia thường được tập trung thể hiện qua yếu tố lãnh thổ và các triều đại chính trị. Đến Nguyễn Trãi, quan niệm này được phát triển đầy đủ hơn vừa có sự thừa kế tư tưởng của triều đại Lý, Trần vừa có những nét chuyển biến mới lạ. Nguyễn Trãi đã xếp văn hiến “vốn xưng nền văn hiến đã lâu” vào vị trí đầu tiên khi nhắc đến sự toàn vẹn của một dân tộc. Ngoài yếu tố địa lý, chính trị được kế thừa, Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh phong tục tập quán và truyền thống lịch sử. So với lãnh thổ, chính trị thì bản sắc văn hoá của một dân tộc mới là yếu tố hàng đầu quyết định sự tồn vong của dân tộc ấy. Lịch sử đất nước đã chứng minh khi các triều đại phương Bắc xâm chiếm, chúng ta vẫn không bị chúng đồng hoá về tiếng nói, phong tục, tập quán vì thế mà chúng ta mới nắm giữ được chìa khoá chốn lao tù.
Quan niệm về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi đã xây dựng nên luận đề chính nghĩa và phản ánh được quá trình trưởng thành của ý thức dân tộc. Khi có cái nhìn đúng đắn về các yếu tố làm nên tổ quốc thì mới có thể huy động được nguồn sức mạnh mà chiến đấu kẻ thù.
Như vậy, có thể thấy ngay trong phần một của bản cáo trạng Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lý: Mọi hành động nhân nghĩa chân chính đều hướng đến mục đích yên dân, đem lại ấm no, hòa bình cho nhân dân. Đâu chỉ thế, lý do chính đáng để tiến hành chiến tranh không phải vì lợi ích của một giai cấp mà là lợi ích của toàn dân thông qua việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nền văn hiến đã được nhân dân xây dựng từ lâu đời.
Bình Ngô đại cáo còn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh. Nhắc đến những tội ác mà kẻ thù gieo vào đời sống nhân dân khó mà dùng một vài hình ảnh để liệt kê hết. Vậy mà Nguyễn Trãi lại có khả năng chọn lọc những chi tiết cụ thể, sinh động lại nén chặt thông tin về những chứng cứ khốc liệt trong những năm tháng quân Minh đô hộ. Tội ác của chúng vừa tác động đến đời sống của nhân dân vừa làm cạn kiệt tài nguyên, thiên nhiên, núi sông phẫn nộ.
Bao nhiêu kiếp người khổ sở bị đẩy vào bước đường cùng. Nghề canh cửi tan tác, phu phe nặng nề “Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa”. Bao nhiêu góa phụ rơi vào bể khổ khi người thân mình bị bắt đi “dòng lưng mò ngọc”, “đãi cát tìm vàng”. Cả cỏ cây, rừng núi cũng không được yên ổn khi bọn chúng vơ vét hết cho kỳ được “chốn chốn lưới giăng”, “nơi nơi cạm bẫy”. Hành động xấu xa của chúng khiến cho đất trời cũng không thể dung tha “bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Cái hay của Nguyễn Trãi là không chỉ liệt kê các sự việc mà còn kèm theo đó là lời bình để thể hiện thái độ lên án quyết liệt đối với tội ác của kẻ thù.
Thay vì cố dồn nén nhiều sự kiện vào trong bài cáo, Nguyễn Trãi chọn cách tăng cường chất lượng phản ánh hiện thực bằng việc lựa chọn những chi tiết hàm súc. Ngọn lửa thiêu người trong đoạn cáo trạng này chính là chi tiết đắt giá có thể kể đến.
Ngọn lửa ấy chính là tội ác, là sức mạnh huỷ diệt con người, nó tượng trưng cho chiến tranh khốc liệt và thảm cảnh tàn bạo mà bàn tay giặc đô hộ gây ra. Lửa đã giết bao nhiêu mạng người, lửa thiêu đốt cả cơ đồ, phá huỷ chùa chiền, lăng tẩm, Ngọn lửa của sự bạo tàn, lòng tham vọng đã thiêu sống con đen, dân đỏ trong suốt hai thập kỷ. Hình ảnh tiếp theo phải kể đến là “nước Đông Hải” và “trúc Nam Sơn”. Tội ác của chúng nước biển mênh mông đến đâu cũng không rửa sạch, cả rừng trúc Nam Sơn rộng lớn cũng không thể ghi hết.
Ở phần vạch trần tội ác của kẻ thù, Nguyễn Trãi đã dùng những chi tiết, hình ảnh vừa có tính bao quát vừa có giá trị hiện thực cùng với giọng văn thống thiết đau xót, phẫn uất đã nói rõ thái độ quyết liệt của tác giả trước những gì quân Minh gây ra chi nhân dân. Tập trung kể về tội ác kẻ thù cũng chính là tạo sự đối lập trong lý tưởng chính nghĩa của quân Lam Sơn. Trong thế trận này, giặc phi nghĩa, ta chính nghĩa và không còn nghi ngờ gì nữa, chính nghĩa ắt thắng hung tàn.
Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trãi đã tái hiện không khí bão táp của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ở đó, hiện lên nổi bật vẫn là hình tượng người anh hùng Lê Lợi và bản anh hùng ca của thời đại.
Người anh hùng áo vải, xuất thân từ tầng lớp bình thường nhưng lại trở thành hình tượng trung tâm bừng sáng. Đọc từng câu văn ta như nghe được tiếng lòng phẫn uất, nỗi trăn trở từ thời các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”..Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ban đầu gặp rất nhiều khó khăn vì Lê Lợi chỉ là một hào trưởng địa phương, sức ảnh hưởng không nhiều. Lại thêm sức mạnh quân đội của nhà Minh đã dập tắt hầu hết những cuộc khởi nghĩa cùng thời. Sức dân đã cạn, lòng tin cũng hao mòn. Vì thế mà lắm phen nghĩa quân rơi vào lao đao, bế tắc, thiếu cả lương thực, vũ khí, nhân tài, bị vây hãm nhiều ngày trên núi Chí Linh.
Và
Hoàn cảnh có khốn cùng đến một mất một còn thì người anh hùng đất Lam Sơn vẫn không sờn lòng, nản chí. Cốt cách của người hào trưởng nhân dân không sợ gian khổ, vươn lên trở ngại.
Người lãnh đạo sáng suốt biết tìm trong bóng tối gian khó để nhận ra con đường ánh sáng, tìm được giải pháp có tính chất chiến đấu lâu dài. Và không giải pháp nào hơn là tinh thần đoàn kết của nhân dân. Chính sức mạnh này đã giúp nghĩa quân vượt qua giai đoạn đầu thiếu thốn mà ngày càng lớn mạnh.
Đâu chỉ vận dụng sức mạnh quần chúng để đánh giặc, người lãnh đạo sáng suốt còn biết thông minh, sáng tạo để sử dụng chiến thuật hay khắc phục từng bước khó khăn.
Từ phẩm chất của người lãnh đạo Lam Sơn, Nguyễn Trãi muốn nói đến phẩm chất của toàn quân khởi nghĩa. Từ việc khắc hoạ tài năng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi lại muốn hướng đến hình ảnh các vị tướng lĩnh và toàn thể quân đội. Ông không hề nhắc đến một cái tên riêng kể cả vị chủ soái, điều đó có thể giải thích vì nhà văn không muốn miêu tả những người anh hùng cá nhân mà muốn làm nổi bật tầm vóc, khí thế của đoàn quân Lam Sơn dựa trên sức mạnh đoàn kết không gì chia cắt được. Họ không phải là một người mà là một tập thể thống nhất “sĩ khí, quân thanh, sĩ tốt, bề tôi”..
Nguyễn Trãi cũng điểm qua những trận chiến có ý nghĩa quan trọng đối với chiến thắng sau cùng của quân Lam Sơn. Nhiều hình ảnh tượng trưng được sử dụng kết hợp với giọng điệu tăng tiến, dồn nén đầy tự hào.
Hai trận Trà Lân và Bồ Đằng là hai trận đánh mở màn cho bước phản công mạnh mẽ của nghĩa quân. Cách miêu tả của nhà văn cho chúng ta liên tưởng đến bước đi của một cơn bão lớn khi mà mọi hiện tượng đã xuất hiện. Đến đoạn miêu tả cảnh viện binh của Liễu Thăng bị chặn đánh tơi bời ở Mã Yên, ta lại nghe được cả tiếng ầm ầm thác lũ, tiếng cuồng phong bão táp.
Cơn bão giông đâu dừng lại ở đó khi mà sức mạnh quân sự của quân Lam Sơn ngày một tăng cường. Đất trời mù mịt, ngả nghiêng như trút hết căm hờn vào bọn xâm lăng.
Nguyễn Trãi không dùng tên riêng, không đặc biệt ghi công một vị tướng nào của nghĩa quân. Tuy nhiên khi kể đến sự thất bại thảm hại của quân Minh, nhà văn lại liệt kê hàng loạt những tên tuổi như thế lại càng tăng sự mỉa mai, chỉ đích danh cái xấu, cái ác.
“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.”…
“Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng”
Chưa dừng lại ở đó, nhà văn đôi khi còn gọi cả tên tuổi, chức tước để châm biếm sâu cay.
Sự thất bại thảm hại của kẻ thù được Nguyễn Trãi hình dung bằng hai từ “máu” và “thây”. Một đoạn văn có đến ba lần cặp hình ảnh này xuất hiện chính là chứng tỏ cho kết cục hoàn toàn bại hoại của quân Minh.
Sự độc đáo của đoạn văn là khả năng dồn nén thời gian, bỏ qua các giai đoạn chuyển tiếp để những sự kiện nổi bật lần lượt xuất hiện với tần suất cao. Chính điều đó đã tạo cảm giác về mức độ tăng tiến của cuộc chiến. Càng về cuối, chiến thắng càng dồn dập không thể tính theo trận mà tính theo ngày, theo từng hồi trống.
Có thể nói đoạn văn tổng kết những chiến công oanh liệt và sự thất bại của quân Minh được viết bằng giọng điệu biến hoá, linh hoạt, lúc ca ngợi, hào khí lúc mỉa mai, châm biếm, lúc lại trầm hùng, hào sảng. Đọc từng câu văn mà cứ ngỡ tấm lòng của Nguyễn Trãi tuôn trào ra đầu ngọn bút.
Bình Ngô đại cáo kết thúc bằng bản tuyên ngôn khẳng định chủ quyền thống nhất dân tộc, mở ra kỷ nguyên hưng thịnh của vương triều hậu Lê.
Mục đích của cuộc chiến chính nghĩa bao giờ cũng là sự yên ổn, hoà bình. Thế nên khi đã đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút của mình thể hiện niềm vui, niềm tự hào và tin tưởng của tương lai. Giọng điệu phấn chấn , lạc quan khiến người đọc liên tưởng đến khúc khải hoàn ca của một vị tướng lừng danh thời Trần.
(Trần Quang Khải)
Dựa trên quy luật tất yếu của trời đất, bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, Nguyễn Trãi muốn chứng minh đất nước ta đã đến hồi đại thắng, rồi đây sẽ là giai đoạn thái bình, thịnh trị lâu dài.
Hình ảnh “một cỗ nhung y” chứa đựng hàm ý ngợi ca Lê Lợi. Một người lãnh đạo toàn tài hiếm có sẽ là một đấng minh quân sau này mở ra triều đại vững bền.
Phần cuối của bản cáo giọng văn dàn trải, lời văn trịnh trọng đầy hưng phấn như một lời khẳng định đầy niềm tin tưởng. Cả Bình Ngô đại cáo xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước trong nền văn học thế kỷ XV nói riêng văn văn học học trung đại nói chung. Ngoài việc tổng kết luận đề về chính nghĩa, chiến thắng oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn, ca ngợi hình tượng người lãnh đạo Lê Lợi và sức mạnh đoàn kết của toàn quân, Bình Ngô đại cáo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của bản cáo trạng đanh thép về tội ác của kẻ thì và sự thất bại tất yếu của chúng.
Chiến tranh vì chính nghĩa, đứng lên vì bảo vệ lợi ích của nhân dân, một tư tưởng tiến bộ của thời đại được khởi xướng từ nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Trãi, điều đó cũng chứng minh về sự phát triển vượt bậc của tư tưởng, niềm tự hào dân tộc, cái nhìn mang tính chất tương lai khi trao nhiệm vụ gánh vác đất nước cho toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là bản hùng văn thiên cổ cũng là một tác phẩm kiệt xuất cho sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi.
Từ xưa cho đến nay, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố cho nền độc lập, cho chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta thì còn có hai áng thiên cổ hùng văn khác cũng được coi như là hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ trong lịch sử. Đó là Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một thời đại với những hoàn cảnh khác nhau, những cái nhìn khác nhau, song ta thấy ở mỗi một bản tuyên ngôn những giá trị về tư tưởng vô cùng tiến bộ và đúng đắn. Nếu như tác phẩm Nam quốc sơn hà đã khẳng định chắc chắn về chủ quyền lãnh thổ, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh cho thấy quyền con người lớn lao thì Bình Ngô đại cáo lại là một khía cạnh khác. Đó là tư tưởng phải chăm lo cho muôn dân, yêu dân và dẹp trừ bạo loạn, để cuộc sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua đoạn 1 của tác phẩm.
Sau khi nước ta giành được thắng lợi của cuộc chiến chống quân Minh, vua Lê Lợi đã lệnh cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo. Năm 1428, bài cáo này đã được công bố đến toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo đã thuật lại và tổng kết lại quá trình đánh đuổi quân Minh khỏi bờ cõi của nhân dân ta, cho thấy chiến thắng vang dội cùng lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền của dân tộc. Tác phẩm được viết bằng thể cáo, là một thể văn nghị luận có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhà vua ban bố nó để cho toàn thể nhân dân mà mọi người trong đất nước được biết. Bình Ngô đại cáo gồm có ba phần với sự liên kết chặt chẽ với nhau. Phần một thể hiện tư tưởng của tác giả, đó là tư tưởng nhân nghĩa. Đến phần thứ hai, Nguyễn Trãi đã vạch trần những tội ác của giặc Minh xâm lược và phần cuối cùng chính là sự thuật lại những trận đánh, những chiến công trong cuộc chiến của quân dân ta. Cả bài cáo thể hiện lên lòng tự hào dân tộc sâu sắc cùng với lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hùng hồn mà không kẻ địch nào có quyền được xâm phạm tới. Ta đặc biệt chú trọng đến tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đã nêu ra trong đoạn 1 của tác phẩm này.
Xưa kia, trong xã hội phong kiến, tư tưởng Nho giáo là một hệ tư tưởng gắn chặt với nhân dân. Và Nguyễn Trãi cũng không ngoại lệ. Bài cáo mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có nguồn gốc từ Nho giáo:
Trước hết, ta cần phải hiểu được nhân nghĩa là gì? Nhân là người, nghĩa là việc nghĩa. Nhân nghĩa là một tư tưởng, là những hành động phải đứng về phía lẽ phải, vì quyền và lợi ích của con người, bảo vệ cho lợi ích của con người. Nguyễn Trãi coi nhân nghĩa chính là một tư tưởng đầu tiên cần phải có để trị vì đất nước. Để đất nước được phát triển thịnh vượng, không có bóng giặc ngoại xâm, đời sống của nhân dân được ấm no, hạnh phúc thì người đứng đầu đất nước là nhà vua phải có trách nhiệm yêu dân, thương dân như con, luôn đặt lợi ích của con dân nước mình lên hàng đầu. Tuy nhiên, chỉ yêu dân và thương dân thôi là chưa đủ, bậc đế vương còn phải biết “trừ bạo”. Bạo ở đây chính là bạo loạn, là bọn giặc Minh sang xâm lược nước ta. Cái ác đang hiện hữu trước mắt và người đứng đầu đất nước phải có trách nhiệm dẹp trừ, tiêu diệt nó, đấu tranh cho độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Từ tình yêu thương, lo nghĩ cho nhân dân hình thành tư tưởng, thành hành động chống lại kẻ thù xâm lược. Đây cũng chính là lí do và giá trị cốt lõi làm nên thành công của cuộc chiến chống giặc Minh của vua Lê Lợi.
Để chứng minh cho tư tưởng của mình, Nguyễn Trãi đã nêu ra những dẫn chứng trong lịch sử:
Nước Đại Việt ta trước kia đã xưng nền độc lập khắp bốn phương, ta có nền văn hiến từ ngàn xưa, có sự phân chia rõ ràng, rành mạch về địa lí, về lãnh thổ đối với các quốc gia khác. Ta cũng có những nền văn hóa riêng biệt ở Bắc và Nam. Như các triều đại đi trước, từ thời nhà “Triệu, Đinh, Lí, Trần” đều đã xây dựng được nền độc lập. Không những vậy, Nguyễn Trãi còn lấy ví dụ về các triều đại ở Trung Quốc: “Hán, Đường, Tống, Nguyên” đã từng xưng đế một phương. Qua các triều đại trong lịch sử với nền độc lập, chủ quyền mà họ đã xây dựng thì đều là những chứng cứ không thể chối cãi được. Tầm nhìn sâu rộng của Nguyễn Trãi được thể hiện ở chỗ, ông không chỉ lấy ví dụ về các triều đại trong nước mà còn lấy chứng cứ từ Trung Quốc, nhằm tăng thêm tính đúng đắn của lập luận này. Mỗi một thời kì đều có những nhân tài, những vị anh hùng kiệt xuất:
Advertisement
Nguyễn Trãi khẳng định rằng hào kiệt của đất nước không bao giờ thiếu, bởi mỗi thời đại đều sản sinh ra nhiều người tài giỏi cống hiến cho đất nước. Họ đã làm cho những kẻ thù phải chịu những sự thất bại, nhục nhã:
Hàng loạt những cái tên được nêu ra: “Lưu Cung, Triệu Tiết, Cửa Hàm, Ô Mã” đều là những kẻ địch ham danh, hám lợi đi xâm lấn nước khác. Kết cục mà chúng phải chịu là vô cùng đớn đau. Nguyễn Trãi đã sử dụng một loạt các động từ mạnh như “bắt sống”, “giết tươi” cho thấy thái độ quả quyết, không khoan nhượng trước những thế lực thù địch. Một khi chúng đã dám sang xâm lược và làm tổn hại đến lợi ích, đến đời sống của nhân dân, đến nền độc lập của đất nước thì chúng sẽ phải chịu hậu quả khôn lường. Hai câu thơ cuối đoạn một là lời khẳng định chắc nịch của tác giả:
Tác giả kết lại tư tưởng “nhân nghĩa” của mình bằng một lời khẳng định “Chứng cớ còn ghi”. Đây là thực tế lịch sử không thể chối cãi được, không thể phủ nhận được. Những triều đại đi trước đã có những chiến công lẫy lừng, đã giành lấy nền tự chủ thì cớ gì ta lại không làm được, huống hồ vị vua Lê Lợi là một người vô cùng anh minh, sáng suốt và lo cho cuộc sống của nhân dân. Cũng có thể cho rằng đây là lời kết lại của luận điểm đầu tiên, để tác giả vạch trần những tội ác của giặc Minh ở phần sau.
Với những lập luận sắc bén, logic, có chứng cứ rõ ràng, rành mạch, Nguyễn Trãi đã làm nổi bật lên tư tưởng chủ đạo của đoạn một. Đó chính là “tư tưởng nhân nghĩa”, phải yêu thương nhân dân, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân và dẹp trừ bạo loạn đang tồn tại lúc bấy giờ. Ta thấy được ở tác giả một tấm lòng chăm lo đến người dân sâu sắc, một trợ thủ đắc lực, tư duy hơn người, phò tá cho đế vương.
Nguyễn Trãi là một trong những tác giả lớn của nền văn học Việt Nam xưa kia, điều đó được thể hiện rất rõ qua tác phẩm này. Bình Ngô đại cáo cho đến nay vẫn là một bản tuyên ngôn độc lập mạnh mẽ, hùng hồn mỗi khi nhắc lại.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập…
Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng.
Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy.
Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.
Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục – hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.
Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:
Vậy nên:
Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu chúng tôi công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm.
Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình.
Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.
………………
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Hình Tượng Chiếc Thuyền Ngoài Xa (Dàn Ý + 5 Mẫu) Vẻ Đẹp Của Chiếc Thuyền Ngoài Xa trên website Vxsc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!