Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Của Nguyễn Trãi Dàn Ý &Amp; 17 Bài Văn Mẫu Lớp 10 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Vxsc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Mở bài:
– Giới thiệu về tác gia Nguyễn Trãi: Là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, nhà văn nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.
– Khái quát về tác phẩm: Là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc.
II. Thân bài:
a. Tiền đề lý luận
* Tư tưởng nhân nghĩa
– “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí.
– “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi
Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” – làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, hạnh phúc
Cụ thể hóa với nội dung mới đó là trừ bạo – vì nhân dân diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
→ Với nét nghĩa tiến bộ, mới mẻ Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh đồng thời phân biệt rõ ràng ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.
→ Tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn – là cuộc khởi nghĩa nhân nghĩa, vì cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.
* Chân lý về độc lập dân tộc
– Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các dẫn chứng thuyết phục: Nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ riêng biệt, phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
→ Bằng cách liệt kê tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập, đó là chân lý không thể chối cãi.
– Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
– Thái độ của tác giả:
So sánh các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại của Trung Hoa.
Gọi các vị vua Đại Việt là “đế”: Trước nay hoàng đế phương Bắc chỉ xem vua nước Việt là Vương.
→ Thể hiện ý thức về chủ quyền độc lập cao độ của tác giả.
– Sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lý: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã,…
→ Là lời cảnh cáo đanh thép, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào bởi những chiến công của nhân dân Đại Việt.
b. Soi chiếu lý luận vào thực tiễn.
* Tội ác của giặc Minh.
– Tội ác xâm lược: Từ “nhân, thừa cơ” cho thấy sự cơ hội, thủ đoạn của giặc Minh, chúng mượn chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để gây chiến tranh xâm lược nước ta.
→ Vạch trần luận điệp bịp bợm, cướp nước của giặc Minh.
– Tội ác với nhân dân:
Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ
Bóc lột bằng thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật nước ta
Phá hoại môi trường, tiêu diệt sự sống
Bóc lột sức lao động, phá hoại sản xuất.
→ Sử dụng biện pháp liệt kê tố cáo những tội ác dã man của giặc.
→ Gợi hình ảnh đáng thương, tội nghiệp, khổ đau của nhân dân
→ Nỗi xót xa, đau đớn, thương cảm đối với nhân dân, sự căm phẫn đối với kẻ thù của tác giả.
* Lòng căm thù giặc của nhân dân.
– Hình ảnh phóng đại “trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi” lấy cái vô cùng của tự nhiên để nói về tội ác của giặc Minh.
– Câu hỏi tu từ “lẽ nào…chịu được”: Tội ác không thể dung thứ của giặc.
→ Thái độ căm phẫn, uất nghẹn không bao giờ tha thứ của nhân dân ta
⇒ Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh
c. Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
* Hình tượng người anh hùng Lê Lợi
– Nguồn gốc xuất thân: là người nông dân áo vải “chốn hoang dã nương mình”
– Lựa chọn căn cứ khởi nghĩa: “Núi Lam Sơn dấy nghĩa”
– Có lòng căm thù giặc sâu sắc, sục sôi: “Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống…”
– Có lý tưởng, hoài bão lớn lao, biết trọng dụng người tài: “Tấm lòng cứu nước…dành phía tả”.
– Có lòng quyết tâm để thực hiện lí tưởng lớn “Đau lòng nhức óc…nếm mật nằm gai…suy xét đã tinh”.
→ Hình tượng Lê lợi vừa là con người bình dị đời thường, vừa là người anh hùng khởi nghĩa. Hình tượng Lê Lợi cũng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi cho thấy tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa.
* Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
– Giai đoạn đầu cuộc khởi nghĩa:
Khó khăn về quân trang, lương thực: lương hết mấy tuần, quân không một đội
Tinh thần của quân và dân: Gắng chí, quyết tâm (Ta gắng chí khắc phục gian nan), đồng lòng, đoàn kết (sử dụng 2 điện tích dựng cần trúc, hòa nước sông)
→ Giai đoạn đầu đầy khó khăn, thử thách, nhờ sự lạc quan, đồng lòng, đoàn kết, biết dựa vào dân đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua mọi khó khăn.
– Giai đoạn phản công và giành thắng lợi
Những chiến thắng ban đầu: Trận Bạch Đằng, miền Trà Lân tạo thanh thanh thế cho nghĩa quân và trở thành nỗi khiếp đảm cho kẻ thù “sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay”.
Nghĩa quân liên tiếp giành nhiều thắng lợi to lớn, tiêu diệt giặc ở những thành mà chúng chiếm đóng “Trần Trí, Sơn Thọ…thoát thân” và tiêu diệt quân chi viện của giặc “Đinh Mùi…tự vẫn”.
→ Biện pháp liệt kê tái hiện không khí chiến trận máu lửa, sục sôi với những chiến thắng giòn giã liên tiếp của quân ta cũng như sự thất bại nhục nhã, ê chề của địch.
+ Sự thất bại nhục nhã, thảm thương của giặc Minh:
Nghệ thuật cường điệu, phóng đại cực tả sự thiệt hại, tổn thất to lớn của quân thù. Đó là những thất bại nhục nhã, ê chề “thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm, bêu đầu, bỏ mạng,..”.
Thất bại thảm hại, khốn đốn, cửi áo giáp xin hàng “Thượng thư Hoàng Phúc…xin cứu mạng”
Tướng giặc tham sống sợ chết xin hàng.
+ Khí thế vang dội và cách ứng xử của quân dân ta:
Cách nói cường điệu, phóng đại: “Gươm mài đá đá núi cũng mòn, voi uống nước nước sông phải cạn, đánh một trận….”, ca ngợi khí thế hào sảng, ngút trời của quân ta.
Thực thi chính sách nhân nghĩa “Thần vũ chẳng giết hại…nghỉ sức”. Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, nó vừa khiến ta thấy được tính chất chính nghĩa của nghĩa quân vừa là sự chuẩn bị cần thiết cho chính sách ngoại giao sau này.
→ Nghệ thuật đối lập đã thể hiện rõ những nét đối cực trong cuộc chiến giữa ta và địch, từ tính chất cuộc chiến cho đến khí thế, sức mạnh, những chiến công và cách ứng xử
→ Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của tác giả.
d. Niềm tin, ý chí.
– Giọng điệu trang trọng, hào sảng cho thấy niềm tin và những suy tư sâu lắng của tác giả
– Sử dụng những hình ảnh về tương lai đất nước như “xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ đây đổi mới, thái bình vững chắc”, các hình ảnh của vũ trụ “kiền khôn, nhật nguyệt, ngàn thu sạch làu”
→ Đất nước, vũ trụ đang vận động theo hướng tươi sáng, tốt đẹp hơn.
→ Đây không chỉ là lời tuyên bố kết thúc còn là niềm tin tưởng, lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước.
e. Nghệ thuật
– Sử dụng sáng tạo và thành công thể cáo
– Kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính trị và yếu tố văn chương.
– Sử dụng các biện pháp liệt kê, phóng đại, đối lập,..
III. Kết bài:
Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Liên hệ với “Nam quốc sơn hà”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận tài ba của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn chính luận của Nguyễn Trãi không thể nào chúng ta không nhắc tới “Bình Ngô đại cáo” – một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết ra sau cuộc kháng chiến chống quân Minh. Tác phẩm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và được xem là “Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc”.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ bắt nguồn từ Trung Quốc với bố cục và kết cấu chặt chẽ. Mở đầu, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu ra luận đề chính nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho toàn bộ bài cáo của mình.
Chỉ với hai câu mở đầu bài cáo của mình, tác giả đã nêu lên tư tưởng xuyên suốt tác phẩm đó chính là nhân nghĩa – một phạm trù tư tưởng bắt nguồn từ Nho giáo, dùng để thể hiện cách ứng xử và những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Và với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đó bắt nguồn từ tư tưởng “yên dân” “trừ bạo”. Có thể nói rằng đây chính là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, từ lòng yêu thương nhân dân và vì nhân dân mà diệt bạo, mà đánh đuổi các thế lực xâm lược. Đồng thời, cũng trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên những chân lý độc lập khách quan, là cơ sở lý luận bền vững để khẳng định độc lập dân tộc cũng như nói lên tư tưởng của bài cáo.
Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một hình ảnh vô cùng chân thực và rõ ràng những truyền thống vẻ vang từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Trước hơn hết, nước ta có một nền văn hiến lâu đời, phong tục Bắc Nam từ ngàn năm. Đồng thời, nước ta còn là nước có bờ cõi, lãnh thổ riêng, được mọi người thừa nhận. Đặc biệt hơn cả, thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của nuowsc ta với các triều đại phương Bắc, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại, anh hùng ta ngang hàng với các triều đại phương Bắc, điều đó không chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi.Không dừng lại ở đó, để nêu lên chân lý rõ ràng cho nền độc lập nước ta, tác giả còn tái hiện lại vẻ hào hùng với những chiến thắng vang dội khắp non sông của quân và dân ta trong suốt thời kỳ lịch sử trước đó.
Thêm vào đó, từ cơ sở luận đề chính đã nêu, trong những câu tiếp theo của bài cáo, Nguyễn Trãi đã đi sâu hơn để vạch rõ những tội trạng man rợ, gian ác của kẻ thù. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh đối với nước ta.
Như vậy, chỉ với bốn câu văn song tác giả đã vạch rõ cho người đọc âm mưu xâm lược của giặc Minh. Quân Minh đã lợi dụng tình hình hỗn loạn trong nước ta dưới thời nhà Hồ, với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ”, bọn chúng đã lợi dụng tiến vào và thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, không chỉ vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, tác giả còn tố cáo, vạch trần những hành động, tội ác man rợ của giặc trên hầu hết tất cả các lĩnh vực bằng hình ảnh, từ ngữ phong phú. Tội ác đầu tiên của giặc Minh đã được tác giả kể ra đó chính là tàn sát, giết hại những người dân vô tội.
Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, tác giả đã vạch rõ những hành động giết người man rợ, tàn ác của giặc. Ngay đến cả những “dân đen”, “con đỏ” – những người vô tội chúng cũng không nương tha. Tất cả những điều đó đã thể hiện sự tàn ác của bọn giặc. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát những người dân vô tội bằng cách đẩy vào những nơi rừng thiêng, nước độc với đầy rẫy những hiểm nguy thường trực không biết có ngày nào trở lại hay không.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.
Đồng thời, tội ác của bọn giặc còn được thể hiện qua những chính sách thuế khóa nặng nề, vô lý cùng với những chính sách hủy hoại môi trường sống, cảnh quan thiên nhiên, tiêu diệt sự sống của vạn vật trên đất nước.
Như vậy, với hàng loạt các hình ảnh tả thực, giàu tính biểu tượng, đoạn hai của bài cáo như một bản cáo trạng đanh thép mà ở đó, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch ra những tội ác, những hành động man rợ, ghê người của bọn giặc Minh xâm lược. Và để rồi tất cả những tội ác đó được giác giải khái quát lại trong câu thơ giàu tính khái quát và biểu tượng. Đồng thời, qua những lời thơ ấy cũng đã phần nào giúp chúng ta thấy được thái độ căm thù đến tột cùng của tác giả.
Không chỉ dừng lại ở việc vạch ra tội ác, “Bình Ngô đại cáo” còn tái hiện lại một cách chân thực quá trình kháng chiến và giành lấy thắng lợi của quân và dân ta. Mở đầu cho đoạn văn chính là hình ảnh vị chủ tướng, người anh hùng Lê Lợi:
Đại từ “ta” đặt ở đầu đoạn văn như một lời khẳng định chắc nịch, thể hiện rõ lai lịch, nguồn gốc xuân thân của anh hùng Lê Lợi. Xuất thân từ nhân dân, nên chắc có lẽ hơn ai hết Lê Lợi hiểu được những nhọc nhằn và cả sự căm phẫn giặc sâu sắc của nhân dân ta – “Căm thù giặc thề không cùng chung sống”. Nhưng người anh hùng đó không chỉ có căm thù giặc sâu sắc mà còn mang trong mình bao nỗi niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn gì giận” để suy tính con đường đánh đuổi quân xâm lược và cuối cùng người anh hùng ấy đã dấy binh khởi nghĩa, mang theo trong mình trọng trách cao cả và niềm tin thắng lợi. Song, không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng Lê Lợi, đoạn ba của bài cáo còn tái hiện lại những khó khăn, thử thách gian khổ và cả những chiến thắng vang dội của dân tộc ta. Trước hết, trong buổi đầu khởi nghĩa, quân ta đã gặp những muôn vàn khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực. Đó là những ngày quân giặc còn rất mạnh, nhân tài của ta còn nhiều hạn chế “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”…Thế nhưng, với tất cả ý chí, lòng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định “đem đại nghĩa để thắng hung tàn” “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân của ta đã vượt qua muôn vàn những thách thức để đạt được nhiều thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Mở đầu của những chiến đông ấy là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần trí, Sơn Thọ, Lý An,…và hàng loạt những chiến thắng cứ thế nối tiếp nhau.
Như vậy, trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc hình chủ tướng Lê Lợi cùng những thử thách mà quân và dân ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Đặc biệt, sau khi chiến thắng, nghĩa quân ta của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng con đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư tưởng, luận điểm chính nghĩa mà quân của ta trọn đời vững tin. Và để rồi, trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối của bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, hòa bình cho dân tộc.
Với giọng văn hùng hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi được tuyên bố rộng rãi tới tất cả mọi người. Lời tuyên ngôn ất không chỉ là lời khẳng định về nền độc lập, hòa bình, thống nhất của dân tộc mà qua đó còn thể hiện thái độ ca ngợi và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của đất nước, của dân tộc khi bước vào một thời kỳ mới.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và trữ tình. Trải qua bao nhiêu ngàn năm phát triển lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa to lớn của bài cáo này vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay.
Nguyễn Trãi là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học trung đại Việt Nam nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học độc đáo, có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc mọi thế hệ và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm như thế. “Bình Ngô đại cáo” ra đời sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân minh xâm lược. Tác phẩm không chỉ là một văn kiện lịch sử tuyên bố nền độc lập của dân tộc mà nó còn là áng văn yêu nước, áng văn chính luận xuất sắc của nền văn học nước ta.
Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo nêu lên luận đề chính nghĩa, làm cơ sở, nền tảng cho chân lí độc lập dân tộc.
Như chúng ta đã biết, “nhân nghĩa” là một trong số những phạm trù tư tưởng quen thuộc và gần gũi của Nho giáo, nó được dùng để nhắc tới mối quan hệ, cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức. Với Nguyễn Trãi, “việc nhân nghĩa” phải gắn liền với việc “yên dân” bởi ông luôn “lấy dân làm gốc”, làm nền tảng cho mọi hành động, việc làm của mình. Đặc biệt, trong bối cảnh quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi khẳng định, muốn “yên dân” thì trước hơn hết phải lo “trừ bạo” nghĩa là phải đánh đuổi quân xâm lược, những kẻ đang đàn áp nhân dân và đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, cơ cực. Như vậy, với hai câu thơ mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tiền đề tư tưởng cho toàn bộ tác phẩm, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng ấy luôn lấy dân làm gốc, xét đến cùng đây là một tư tưởng tiến bộ và mới mẻ của ông. Thêm vào đó, trong phần mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nêu lên chân lí khách quan để khẳng định nền độc lập của dân tộc ta từ bao đời nay.
Dường như, đoạn văn đã gợi lại trong chúng ta những truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng. Đồng thời, với lối so sánh các triều đại phong kiến của nước Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà nó còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thống văn hiến từ ngàn năm. Đồng thời, để khẳng định chân lí độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã liệt kê, kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó.
Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợn của giặc Minh. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh.
Lợi dụng tình hình rối ren trong nước của nhà Hồ, giặc Minh với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để lừa bịp nhân dân, chúng đã tiến vào xâm lược nước ta. Để rồi, sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man và dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã lật mặt, vạch rõ hàng loạt tội ác không thể tha thứ của giặc Minh. Chúng đã tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.
Bọn giặc Minh thật tàn ác biết bao, ngay đến cả “dân đen”, “con đỏ” chúng cũng không chịu tha. Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu dường như đã lột tả đến tột cùng sự tàn sát man rợ, giết người không ghê tay của bọn chúng. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy họ vào những noi đầy rẫy những hiểm nguy, nơi mà khi đã đi rồi thì rất khó để có thể sống sót để trở về.
Đồng thời, tội ác của giặc Minh còn ở đặt lên đầu nhân dân những chính sách thuế khóa nặng nề, và vô lí và không dừng lại ở đó, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên.
Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh chân thực, rõ nét cùng việc sử dụng phép đối lập giữa tội ác của kẻ thù với nỗi đau thống khổ của nhân dân và giọng văn đanh thép, hùng hồn, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng về những tội ác man rợ của kẻ giặc và bản cáo trạng ấy khép lại bằng một hình ảnh so sánh giàu sức khái quát và đầy ám ảnh về tội ác của chúng.
Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi.
Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân. Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa. Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.
Trọn hay:
Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy. Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp:
Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ.
Cuối cùng, trên cơ sở luận đề chính nghĩa và thực tiễn của cuộc chiến đấu đoạn cuối của bài cáo đã lên tiếng tuyên bố nền hòa bình, độc lập của dân tộc.
Với giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc, lời tuyên bố độc lập được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể mọi người. Lời tuyên bố ấy không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.
Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.
Hiện tượng văn, sử, triết bất phân là đặc trưng của nền văn học trung đại không chỉ Việt Nam mà còn là xu hướng chung của thế giới. Thế nên, tìm hiểu những tác phẩm văn học trung đại ta nhìn thấy từng dấu ấn lịch sử hiện ra rõ nét. Trong nhiều tác phẩm sử vẫn tìm thấy phong cách của văn chương và ngược lại trong văn chương vẫn mang đậm lối kể của sử và cách nhìn cuộc đời của triết. Cũng giống như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo đánh dấu một chặng đường lịch sử trọng đại của nước nhà. Tuy nhiên khi Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không nằm ở giai đoạn cả nước chuẩn bị kháng chiến mà là khi vua Lê đã đánh đuổi được ngoại xâm, giành lấy độc lập cho Đại Việt. Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn thay lời Bình Định vương Lê Lợi tuyên cáo với toàn dân về chiến thắng vẻ vang trước quân Minh đồng thời cũng là khẳng định nền độc lập của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Cuối năm 1427 khi đất nước đã sạch bóng quân thù đồng thời cũng là lúc hàng loạt những chính sách đối nội, đối ngoại được thực hiện nhằm khiến cho nhân dân trong nước và triều đại phương Bắc phải thừa nhận tính chất chính thống của vương triều mới. Đây chính là lúc triều đại mới cần có tiếng nói hợp pháp nhằm bố cáo với toàn dân và xác lập chủ quyền. Suốt mấy mươi năm chịu ách nô lệ của nhà Minh cùng với quá khứ Bắc thuộc cứ mãi ám ảnh day dứt trong tâm trí người Việt, lại thêm nhân dân ta mất lòng tin với triều đại trước đó nên chẳng còn mối quan hệ gắn bó với nhà nước phong kiến. Lúc này đây, nhiệm vụ quan trọng của Nguyễn Trãi là phải chuyển tải được niềm tin đối với đất nước, triều đại mới, niềm tự hào với truyền thống dân tộc.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi không dừng lại ở nhiệm vụ của bản tuyên ngôn độc lập mà còn là lời đanh thép khẳng định nhân quyền, chủ quyền.
Cáo là thể văn nghị luận cổ, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả của một sự nghiệp để mọi người cùng biết. Cáo phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu. Bình Ngô đại cáo được viết theo bố cục của một bài cáo: nêu luận đề chính nghĩa, kể tội ác của giặc, tổng kết quá trình chinh phạt, tuyên cáo hòa bình, thành lập triều đại mới. Đại cáo không chỉ có nghĩa là một bài cáo có tầm vóc lớn, mang giá trị lịch sử cao mà Nguyễn Trãi còn ngầm so sánh đầy tự hào với các bản cáo mẫu mực của Trung Quốc “Thang cáo”, Vũ cáo”.
Để hiểu rõ ý nghĩa nhan đề Bình Ngô đại cáo cần quan tâm đến hàm ý trong “bình Ngô”. “Ngô” ở đây thường được hiểu là chỉ chung có các triều đại phong kiến phương Bắc, Ngô còn gợi nỗi đau và sự căm phẫn của nhân dân ta về tội ác mà bọn Đông Ngô đã gây ra trong 1000 năm Bắc thuộc. Như vậy có thể tổng hợp lại “Bình Ngô đại cáo” là tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên quân xâm lược, công bố sự ra đời của triều đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc.
Bình Ngô đại cáo trước hết là bản tuyên ngôn về nhân quyền, dân quyền của đất nước. Ngay ở phần đầu tiên của bản cáo, Nguyễn Trãi đã đặc biệt chú ý đến việc xây dựng nên luận đề chính nghĩa. Luận đề này dựa trên mối quan hệ thống nhất giữa ba yếu tố: nhân nghĩa – dân – nước. Tư tưởng “nhân nghĩa” bắt nguồn từ Nho giáo đề cao mối quan hệ giữa người với người dựa trên lòng yêu thương con người và đạo lý làm người. Nguyễn Trãi kế thừa những tư tưởng tích cực của Nho giáo nhưng không đề cao vai trò người quân tử mà hướng đến nhân dân. Với ông, việc nhân nghĩa là việc làm đem đến lợi ích cho nhân dân, bảo vệ nhân dân. Góc nhìn tích cực này so với thời đại phong kiến thật đáng trân trọng. Điều này cũng mở ra những chuyển biến tích cực trong quan niệm về vai trò của nhân dân đối với đất nước.
Nghĩa quân trừ bạo tàn trước hết vì sự yên bình của nhân dân. Dựa vào dân là dựa vào chính nghĩa, có chính nghĩa chắc chắn sẽ tất thắng. Đây chính là tư tưởng chủ đạo trong giai đoạn kháng chiến chống quân Minh. Nguyễn Trãi đã rất khéo khi đem tư tưởng “yên dân” trong đoạn mở đầu làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm để tăng sức thuyết phục cho bài cáo.
Đâu chỉ có những nhận thức sâu sắc về ý nghĩa lịch sử của nhân dân, Nguyễn Trãi còn đưa ra những quan niệm về tổ quốc dựa trên sự hợp nhất giữa các yếu tố: văn hiến, địa lý, phong tục, chính trị, nhân tài, truyền thống lịch sử.
Quan niệm về chủ quyền của một quốc gia, dân tộc đã được nhắc đến trước đó qua Nam quốc sơn hà. Tuy nhiên, giai đoạn trước chủ quyền quốc gia thường được tập trung thể hiện qua yếu tố lãnh thổ và các triều đại chính trị. Đến Nguyễn Trãi, quan niệm này được phát triển đầy đủ hơn vừa có sự thừa kế tư tưởng của triều đại Lý, Trần vừa có những nét chuyển biến mới lạ. Nguyễn Trãi đã xếp văn hiến “vốn xưng nền văn hiến đã lâu” vào vị trí đầu tiên khi nhắc đến sự toàn vẹn của một dân tộc. Ngoài yếu tố địa lý, chính trị được kế thừa, Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh phong tục tập quán và truyền thống lịch sử. So với lãnh thổ, chính trị thì bản sắc văn hoá của một dân tộc mới là yếu tố hàng đầu quyết định sự tồn vong của dân tộc ấy. Lịch sử đất nước đã chứng minh khi các triều đại phương Bắc xâm chiếm, chúng ta vẫn không bị chúng đồng hoá về tiếng nói, phong tục, tập quán vì thế mà chúng ta mới nắm giữ được chìa khoá chốn lao tù.
Quan niệm về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi đã xây dựng nên luận đề chính nghĩa và phản ánh được quá trình trưởng thành của ý thức dân tộc. Khi có cái nhìn đúng đắn về các yếu tố làm nên tổ quốc thì mới có thể huy động được nguồn sức mạnh mà chiến đấu kẻ thù.
Như vậy, có thể thấy ngay trong phần một của bản cáo trạng Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lý: Mọi hành động nhân nghĩa chân chính đều hướng đến mục đích yên dân, đem lại ấm no, hòa bình cho nhân dân. Đâu chỉ thế, lý do chính đáng để tiến hành chiến tranh không phải vì lợi ích của một giai cấp mà là lợi ích của toàn dân thông qua việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nền văn hiến đã được nhân dân xây dựng từ lâu đời.
Bình Ngô đại cáo còn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh. Nhắc đến những tội ác mà kẻ thù gieo vào đời sống nhân dân khó mà dùng một vài hình ảnh để liệt kê hết. Vậy mà Nguyễn Trãi lại có khả năng chọn lọc những chi tiết cụ thể, sinh động lại nén chặt thông tin về những chứng cứ khốc liệt trong những năm tháng quân Minh đô hộ. Tội ác của chúng vừa tác động đến đời sống của nhân dân vừa làm cạn kiệt tài nguyên, thiên nhiên, núi sông phẫn nộ.
Bao nhiêu kiếp người khổ sở bị đẩy vào bước đường cùng. Nghề canh cửi tan tác, phu phe nặng nề “Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa”. Bao nhiêu góa phụ rơi vào bể khổ khi người thân mình bị bắt đi “dòng lưng mò ngọc”, “đãi cát tìm vàng”. Cả cỏ cây, rừng núi cũng không được yên ổn khi bọn chúng vơ vét hết cho kỳ được “chốn chốn lưới giăng”, “nơi nơi cạm bẫy”. Hành động xấu xa của chúng khiến cho đất trời cũng không thể dung tha “bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Cái hay của Nguyễn Trãi là không chỉ liệt kê các sự việc mà còn kèm theo đó là lời bình để thể hiện thái độ lên án quyết liệt đối với tội ác của kẻ thù.
Thay vì cố dồn nén nhiều sự kiện vào trong bài cáo, Nguyễn Trãi chọn cách tăng cường chất lượng phản ánh hiện thực bằng việc lựa chọn những chi tiết hàm súc. Ngọn lửa thiêu người trong đoạn cáo trạng này chính là chi tiết đắt giá có thể kể đến.
Ngọn lửa ấy chính là tội ác, là sức mạnh huỷ diệt con người, nó tượng trưng cho chiến tranh khốc liệt và thảm cảnh tàn bạo mà bàn tay giặc đô hộ gây ra. Lửa đã giết bao nhiêu mạng người, lửa thiêu đốt cả cơ đồ, phá huỷ chùa chiền, lăng tẩm, Ngọn lửa của sự bạo tàn, lòng tham vọng đã thiêu sống con đen, dân đỏ trong suốt hai thập kỷ. Hình ảnh tiếp theo phải kể đến là “nước Đông Hải” và “trúc Nam Sơn”. Tội ác của chúng nước biển mênh mông đến đâu cũng không rửa sạch, cả rừng trúc Nam Sơn rộng lớn cũng không thể ghi hết.
Ở phần vạch trần tội ác của kẻ thù, Nguyễn Trãi đã dùng những chi tiết, hình ảnh vừa có tính bao quát vừa có giá trị hiện thực cùng với giọng văn thống thiết đau xót, phẫn uất đã nói rõ thái độ quyết liệt của tác giả trước những gì quân Minh gây ra chi nhân dân. Tập trung kể về tội ác kẻ thù cũng chính là tạo sự đối lập trong lý tưởng chính nghĩa của quân Lam Sơn. Trong thế trận này, giặc phi nghĩa, ta chính nghĩa và không còn nghi ngờ gì nữa, chính nghĩa ắt thắng hung tàn.
Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trãi đã tái hiện không khí bão táp của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ở đó, hiện lên nổi bật vẫn là hình tượng người anh hùng Lê Lợi và bản anh hùng ca của thời đại.
Người anh hùng áo vải, xuất thân từ tầng lớp bình thường nhưng lại trở thành hình tượng trung tâm bừng sáng. Đọc từng câu văn ta như nghe được tiếng lòng phẫn uất, nỗi trăn trở từ thời các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”..Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ban đầu gặp rất nhiều khó khăn vì Lê Lợi chỉ là một hào trưởng địa phương, sức ảnh hưởng không nhiều. Lại thêm sức mạnh quân đội của nhà Minh đã dập tắt hầu hết những cuộc khởi nghĩa cùng thời. Sức dân đã cạn, lòng tin cũng hao mòn. Vì thế mà lắm phen nghĩa quân rơi vào lao đao, bế tắc, thiếu cả lương thực, vũ khí, nhân tài, bị vây hãm nhiều ngày trên núi Chí Linh.
Và
Hoàn cảnh có khốn cùng đến một mất một còn thì người anh hùng đất Lam Sơn vẫn không sờn lòng, nản chí. Cốt cách của người hào trưởng nhân dân không sợ gian khổ, vươn lên trở ngại.
Người lãnh đạo sáng suốt biết tìm trong bóng tối gian khó để nhận ra con đường ánh sáng, tìm được giải pháp có tính chất chiến đấu lâu dài. Và không giải pháp nào hơn là tinh thần đoàn kết của nhân dân. Chính sức mạnh này đã giúp nghĩa quân vượt qua giai đoạn đầu thiếu thốn mà ngày càng lớn mạnh.
Đâu chỉ vận dụng sức mạnh quần chúng để đánh giặc, người lãnh đạo sáng suốt còn biết thông minh, sáng tạo để sử dụng chiến thuật hay khắc phục từng bước khó khăn.
Từ phẩm chất của người lãnh đạo Lam Sơn, Nguyễn Trãi muốn nói đến phẩm chất của toàn quân khởi nghĩa. Từ việc khắc hoạ tài năng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi lại muốn hướng đến hình ảnh các vị tướng lĩnh và toàn thể quân đội. Ông không hề nhắc đến một cái tên riêng kể cả vị chủ soái, điều đó có thể giải thích vì nhà văn không muốn miêu tả những người anh hùng cá nhân mà muốn làm nổi bật tầm vóc, khí thế của đoàn quân Lam Sơn dựa trên sức mạnh đoàn kết không gì chia cắt được. Họ không phải là một người mà là một tập thể thống nhất “sĩ khí, quân thanh, sĩ tốt, bề tôi”..
Nguyễn Trãi cũng điểm qua những trận chiến có ý nghĩa quan trọng đối với chiến thắng sau cùng của quân Lam Sơn. Nhiều hình ảnh tượng trưng được sử dụng kết hợp với giọng điệu tăng tiến, dồn nén đầy tự hào.
Hai trận Trà Lân và Bồ Đằng là hai trận đánh mở màn cho bước phản công mạnh mẽ của nghĩa quân. Cách miêu tả của nhà văn cho chúng ta liên tưởng đến bước đi của một cơn bão lớn khi mà mọi hiện tượng đã xuất hiện. Đến đoạn miêu tả cảnh viện binh của Liễu Thăng bị chặn đánh tơi bời ở Mã Yên, ta lại nghe được cả tiếng ầm ầm thác lũ, tiếng cuồng phong bão táp.
Cơn bão giông đâu dừng lại ở đó khi mà sức mạnh quân sự của quân Lam Sơn ngày một tăng cường. Đất trời mù mịt, ngả nghiêng như trút hết căm hờn vào bọn xâm lăng.
Nguyễn Trãi không dùng tên riêng, không đặc biệt ghi công một vị tướng nào của nghĩa quân. Tuy nhiên khi kể đến sự thất bại thảm hại của quân Minh, nhà văn lại liệt kê hàng loạt những tên tuổi như thế lại càng tăng sự mỉa mai, chỉ đích danh cái xấu, cái ác.
“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.”…
“Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng”
Chưa dừng lại ở đó, nhà văn đôi khi còn gọi cả tên tuổi, chức tước để châm biếm sâu cay.
Sự thất bại thảm hại của kẻ thù được Nguyễn Trãi hình dung bằng hai từ “máu” và “thây”. Một đoạn văn có đến ba lần cặp hình ảnh này xuất hiện chính là chứng tỏ cho kết cục hoàn toàn bại hoại của quân Minh.
Sự độc đáo của đoạn văn là khả năng dồn nén thời gian, bỏ qua các giai đoạn chuyển tiếp để những sự kiện nổi bật lần lượt xuất hiện với tần suất cao. Chính điều đó đã tạo cảm giác về mức độ tăng tiến của cuộc chiến. Càng về cuối, chiến thắng càng dồn dập không thể tính theo trận mà tính theo ngày, theo từng hồi trống.
Có thể nói đoạn văn tổng kết những chiến công oanh liệt và sự thất bại của quân Minh được viết bằng giọng điệu biến hoá, linh hoạt, lúc ca ngợi, hào khí lúc mỉa mai, châm biếm, lúc lại trầm hùng, hào sảng. Đọc từng câu văn mà cứ ngỡ tấm lòng của Nguyễn Trãi tuôn trào ra đầu ngọn bút.
Bình Ngô đại cáo kết thúc bằng bản tuyên ngôn khẳng định chủ quyền thống nhất dân tộc, mở ra kỷ nguyên hưng thịnh của vương triều hậu Lê.
Mục đích của cuộc chiến chính nghĩa bao giờ cũng là sự yên ổn, hoà bình. Thế nên khi đã đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút của mình thể hiện niềm vui, niềm tự hào và tin tưởng của tương lai. Giọng điệu phấn chấn , lạc quan khiến người đọc liên tưởng đến khúc khải hoàn ca của một vị tướng lừng danh thời Trần.
(Trần Quang Khải)
Dựa trên quy luật tất yếu của trời đất, bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, Nguyễn Trãi muốn chứng minh đất nước ta đã đến hồi đại thắng, rồi đây sẽ là giai đoạn thái bình, thịnh trị lâu dài.
Hình ảnh “một cỗ nhung y” chứa đựng hàm ý ngợi ca Lê Lợi. Một người lãnh đạo toàn tài hiếm có sẽ là một đấng minh quân sau này mở ra triều đại vững bền.
Phần cuối của bản cáo giọng văn dàn trải, lời văn trịnh trọng đầy hưng phấn như một lời khẳng định đầy niềm tin tưởng. Cả Bình Ngô đại cáo xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước trong nền văn học thế kỷ XV nói riêng văn văn học học trung đại nói chung. Ngoài việc tổng kết luận đề về chính nghĩa, chiến thắng oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn, ca ngợi hình tượng người lãnh đạo Lê Lợi và sức mạnh đoàn kết của toàn quân, Bình Ngô đại cáo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của bản cáo trạng đanh thép về tội ác của kẻ thì và sự thất bại tất yếu của chúng.
Chiến tranh vì chính nghĩa, đứng lên vì bảo vệ lợi ích của nhân dân, một tư tưởng tiến bộ của thời đại được khởi xướng từ nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Trãi, điều đó cũng chứng minh về sự phát triển vượt bậc của tư tưởng, niềm tự hào dân tộc, cái nhìn mang tính chất tương lai khi trao nhiệm vụ gánh vác đất nước cho toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là bản hùng văn thiên cổ cũng là một tác phẩm kiệt xuất cho sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi.
Từ xưa cho đến nay, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố cho nền độc lập, cho chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta thì còn có hai áng thiên cổ hùng văn khác cũng được coi như là hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ trong lịch sử. Đó là Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một thời đại với những hoàn cảnh khác nhau, những cái nhìn khác nhau, song ta thấy ở mỗi một bản tuyên ngôn những giá trị về tư tưởng vô cùng tiến bộ và đúng đắn. Nếu như tác phẩm Nam quốc sơn hà đã khẳng định chắc chắn về chủ quyền lãnh thổ, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh cho thấy quyền con người lớn lao thì Bình Ngô đại cáo lại là một khía cạnh khác. Đó là tư tưởng phải chăm lo cho muôn dân, yêu dân và dẹp trừ bạo loạn, để cuộc sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua đoạn 1 của tác phẩm.
Sau khi nước ta giành được thắng lợi của cuộc chiến chống quân Minh, vua Lê Lợi đã lệnh cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo. Năm 1428, bài cáo này đã được công bố đến toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo đã thuật lại và tổng kết lại quá trình đánh đuổi quân Minh khỏi bờ cõi của nhân dân ta, cho thấy chiến thắng vang dội cùng lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền của dân tộc. Tác phẩm được viết bằng thể cáo, là một thể văn nghị luận có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhà vua ban bố nó để cho toàn thể nhân dân mà mọi người trong đất nước được biết. Bình Ngô đại cáo gồm có ba phần với sự liên kết chặt chẽ với nhau. Phần một thể hiện tư tưởng của tác giả, đó là tư tưởng nhân nghĩa. Đến phần thứ hai, Nguyễn Trãi đã vạch trần những tội ác của giặc Minh xâm lược và phần cuối cùng chính là sự thuật lại những trận đánh, những chiến công trong cuộc chiến của quân dân ta. Cả bài cáo thể hiện lên lòng tự hào dân tộc sâu sắc cùng với lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hùng hồn mà không kẻ địch nào có quyền được xâm phạm tới. Ta đặc biệt chú trọng đến tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đã nêu ra trong đoạn 1 của tác phẩm này.
Xưa kia, trong xã hội phong kiến, tư tưởng Nho giáo là một hệ tư tưởng gắn chặt với nhân dân. Và Nguyễn Trãi cũng không ngoại lệ. Bài cáo mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có nguồn gốc từ Nho giáo:
Trước hết, ta cần phải hiểu được nhân nghĩa là gì? Nhân là người, nghĩa là việc nghĩa. Nhân nghĩa là một tư tưởng, là những hành động phải đứng về phía lẽ phải, vì quyền và lợi ích của con người, bảo vệ cho lợi ích của con người. Nguyễn Trãi coi nhân nghĩa chính là một tư tưởng đầu tiên cần phải có để trị vì đất nước. Để đất nước được phát triển thịnh vượng, không có bóng giặc ngoại xâm, đời sống của nhân dân được ấm no, hạnh phúc thì người đứng đầu đất nước là nhà vua phải có trách nhiệm yêu dân, thương dân như con, luôn đặt lợi ích của con dân nước mình lên hàng đầu. Tuy nhiên, chỉ yêu dân và thương dân thôi là chưa đủ, bậc đế vương còn phải biết “trừ bạo”. Bạo ở đây chính là bạo loạn, là bọn giặc Minh sang xâm lược nước ta. Cái ác đang hiện hữu trước mắt và người đứng đầu đất nước phải có trách nhiệm dẹp trừ, tiêu diệt nó, đấu tranh cho độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Từ tình yêu thương, lo nghĩ cho nhân dân hình thành tư tưởng, thành hành động chống lại kẻ thù xâm lược. Đây cũng chính là lí do và giá trị cốt lõi làm nên thành công của cuộc chiến chống giặc Minh của vua Lê Lợi.
Để chứng minh cho tư tưởng của mình, Nguyễn Trãi đã nêu ra những dẫn chứng trong lịch sử:
Nước Đại Việt ta trước kia đã xưng nền độc lập khắp bốn phương, ta có nền văn hiến từ ngàn xưa, có sự phân chia rõ ràng, rành mạch về địa lí, về lãnh thổ đối với các quốc gia khác. Ta cũng có những nền văn hóa riêng biệt ở Bắc và Nam. Như các triều đại đi trước, từ thời nhà “Triệu, Đinh, Lí, Trần” đều đã xây dựng được nền độc lập. Không những vậy, Nguyễn Trãi còn lấy ví dụ về các triều đại ở Trung Quốc: “Hán, Đường, Tống, Nguyên” đã từng xưng đế một phương. Qua các triều đại trong lịch sử với nền độc lập, chủ quyền mà họ đã xây dựng thì đều là những chứng cứ không thể chối cãi được. Tầm nhìn sâu rộng của Nguyễn Trãi được thể hiện ở chỗ, ông không chỉ lấy ví dụ về các triều đại trong nước mà còn lấy chứng cứ từ Trung Quốc, nhằm tăng thêm tính đúng đắn của lập luận này. Mỗi một thời kì đều có những nhân tài, những vị anh hùng kiệt xuất:
Advertisement
Nguyễn Trãi khẳng định rằng hào kiệt của đất nước không bao giờ thiếu, bởi mỗi thời đại đều sản sinh ra nhiều người tài giỏi cống hiến cho đất nước. Họ đã làm cho những kẻ thù phải chịu những sự thất bại, nhục nhã:
Hàng loạt những cái tên được nêu ra: “Lưu Cung, Triệu Tiết, Cửa Hàm, Ô Mã” đều là những kẻ địch ham danh, hám lợi đi xâm lấn nước khác. Kết cục mà chúng phải chịu là vô cùng đớn đau. Nguyễn Trãi đã sử dụng một loạt các động từ mạnh như “bắt sống”, “giết tươi” cho thấy thái độ quả quyết, không khoan nhượng trước những thế lực thù địch. Một khi chúng đã dám sang xâm lược và làm tổn hại đến lợi ích, đến đời sống của nhân dân, đến nền độc lập của đất nước thì chúng sẽ phải chịu hậu quả khôn lường. Hai câu thơ cuối đoạn một là lời khẳng định chắc nịch của tác giả:
Tác giả kết lại tư tưởng “nhân nghĩa” của mình bằng một lời khẳng định “Chứng cớ còn ghi”. Đây là thực tế lịch sử không thể chối cãi được, không thể phủ nhận được. Những triều đại đi trước đã có những chiến công lẫy lừng, đã giành lấy nền tự chủ thì cớ gì ta lại không làm được, huống hồ vị vua Lê Lợi là một người vô cùng anh minh, sáng suốt và lo cho cuộc sống của nhân dân. Cũng có thể cho rằng đây là lời kết lại của luận điểm đầu tiên, để tác giả vạch trần những tội ác của giặc Minh ở phần sau.
Với những lập luận sắc bén, logic, có chứng cứ rõ ràng, rành mạch, Nguyễn Trãi đã làm nổi bật lên tư tưởng chủ đạo của đoạn một. Đó chính là “tư tưởng nhân nghĩa”, phải yêu thương nhân dân, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân và dẹp trừ bạo loạn đang tồn tại lúc bấy giờ. Ta thấy được ở tác giả một tấm lòng chăm lo đến người dân sâu sắc, một trợ thủ đắc lực, tư duy hơn người, phò tá cho đế vương.
Nguyễn Trãi là một trong những tác giả lớn của nền văn học Việt Nam xưa kia, điều đó được thể hiện rất rõ qua tác phẩm này. Bình Ngô đại cáo cho đến nay vẫn là một bản tuyên ngôn độc lập mạnh mẽ, hùng hồn mỗi khi nhắc lại.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập…
Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng.
Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy.
Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.
Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục – hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.
Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:
Vậy nên:
Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu chúng tôi công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm.
Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình.
Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.
………………
Văn Mẫu Lớp 10: Cảm Nhận Về Bài Thơ Bảo Kính Cảnh Giới (Dàn Ý + 10 Mẫu) Gương Báu Răn Mình Của Nguyễn Trãi
Đề bài: Em hãy nêu cảm nhận bài thơ Bảo kính cảnh giới (Cảnh ngày hè) của Nguyễn Trãi.
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè
Cảm nhận Bảo kính cảnh giới
Cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè
Cảm nhận về bài thơ Bảo kính cảnh giới
1. Mở bài
– Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Trãi
+ Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một nhà chính trị, nhà văn, nhà quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hoá thế giới, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam.
– Giới thiệu bài thơ Cảnh ngày hè.
+ Bài thơ Cảnh ngày hè là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Trãi, phản ánh vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước, con người của nhà thơ.
2. Thân bài
a) Khái quát về bài thơ Cảnh ngày hè
– Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ ra đời trong những năm Nguyễn Trãi nhàn quan, không được vua tin dùng như trước.
Bài thơ Cảnh ngày hè là bài số 43 trong mục Bảo kính cảnh giới (gương báu răn mình), phần vô đề của Quốc âm thi tập.
b) Phân tích, cảm nhận về bài thơ
+) Bức tranh thiên nhiên và con người vào ngày hè
– Bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, cảnh vật tươi tắn, rực rỡ
– Bức tranh cuộc sống con người sôi động, náo nhiệt
+ Âm thanh:
+ Hình ảnh: chợ cá làng ngư phủ, lầu tịch dương
Cảnh vật ngày hè ngập tràn màu sắc, sự kết hợp màu độc đáo giữa màu đỏ của hoa lựu trước hiên với cây hòe xanh rợp bóng cùng với âm thanh của tiếng ve, của chợ cá khiến không gian tràn đầy sức sống.
Trong không gian cảnh hè ấy, hình ảnh con người hiện lên với sự sung túc, hạnh phúc trong lao động.
+) Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ
– Tình yêu thiên nhiên say đắm:
Cảm nhận qua thị giác với: những tán lá xanh cây hòe, màu đỏ rực của thạch lựu, hình ảnh người dân làng chài mỗi sớm thức dậy và bóng người kéo lưới buổi chiều tà.
Cảm nhận qua thính giác: tiếng ve kêu ran cả khoảng không gian, tiếng lao xao đông đúc của chợ cá.
Cảm nhận qua khứu giác với hương sen thoảng theo gió.
– Ước nguyện của tác giả và tình yêu nước, thương dân sâu sắc:
+ Ung dung, tự tại, không muốn vướng bận đến chuyện quan trường nhưng vẫn luôn nghĩ về dân, về nước.
+ Tác giả mong có cây đàn của vua Ngu Thuấn để hát ca mong muốn mang lại cuộc sống ấm no, sung túc, yên vui cho nhân dân muôn nơi.
3. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Nội dung: Thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát vọng xã hội phồn vinh, nhân dân no đủ, đất nước thịnh vượng của người nghệ sĩ hết lòng vì nước, vì dân.
Đặc sắc nghệ thuật: Vận dụng sáng tạo thể thơ Đường luật, đan xen câu 6 chữ và câu 7 chữ; ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày; bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng của văn học trung đại.
– Nêu cảm nhận của em về bài thơ.
Nguyễn Trãi không chỉ biết đến với tác phẩm nổi tiếng, một áng thiên cổ hùng văn bình ngô đại cáo mà còn được biết đến với những bài thơ thiên nhiên và con người như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… một trong những tác phẩm thiên nhiên và con người ấy còn phải kể đến bài thơ bảo kính cảnh giới 43 của ông. Đó là bài thơ cảnh ngày hè với những thiên nhiên con người và tâm trạng của Nguyễn Trãi.
Trong những bài thơ về tình yêu thiên nhiên Côn Sơn chính là nơi dừng chân của Nguyễn Trãi trong những ngày tháng buồn bã mệt mỏi nơi quan trường.
Sự ung dung nhàn hạ ấy được thể hiện trong câu thơ đầu tiên:
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Câu thơ như mở ra những ngày tháng thảnh thơi, hóng mát những ngày dài, những hình ảnh dài của những ngày tháng ấy dần được mở ra ở những câu sau. Những ngày tháng ấy là những ngày tháng an nhàn khi gác lại chuyện chính sự sang một bên, khiến cho không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ. cuộc sống với ông chỉ cần thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đất trời mà ông chỉ cảm nhận được gió mát. Thiên nhiên nơi chốn quê hương chính là nguồn cảm hứng vô tân cho tác giả. làm cho ông cảm thấy vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê.
Đây là những câu thơ đặc tả những cảnh đẹp mùa hè nơi chốn quê hương ông, là hương sắc mùa hè rất sinh động và hấp dẫn. hình ảnh của mùa hè hiện ra với những gam màu nóng:màu đỏ của hoa hòe, màu lựu đỏ, màu hồng của cánh sen và chúng được kết hợp với những động từ mạnh như “ đùn đùn”, “ phun”, “ tiễn” cho thấy một bức tranh quê hương với màu sắc và hương vị đặc trưng và sự sinh sôi nảy nở mạnh mẽ trong mùa hè.
Bức họa đồng quê hiện ra với biết bao nhiêu màu sắc bao nhiêu thay đổi đẹp đẽ, và đó còn là sự sinh trưởng mạnh mẽ của hoa cỏ cây cối. nó mang tới cho chúng ta những cảm giác thật yên bình, không những thế ta còn cảm nhận được cái hương vị của mùa hè qua động từ “tiễn”.
Không những thế mùa hè còn mang đến cho tác giả những những phiên chợ những làng ngư phủ. Cuộc sống thôn dã hiện ra với vẻ tấp nập hiếm có của con người nơi đây. Chính chợ phản ánh cuộc sống của con người có no đủ, giàu có hay không
Cuộc sống thật sự náo nhiệt, những phiên chợ của những ngư dân vùng biển, hình ảnh ảnh những con người lao động hiện lên thật đẹp với phiên chợ vui vẻ của những lưới cá bội thu.
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
Cất lên một khúc đàn của cây đàn vua Ngu Thuấn mang lại cho nhân dân cuộc sống ấm no hạnh phúc. MƯợn được hình ảnh vua Ngu Thuấn cây cầm ấy để làm cho nhân dân ta giàu mạnh khắp phương. Dù đã trở về với cuộc sống nơi thôn dã nhưng ông luôn luôn giữ tình yêu thương và lòng mong mỏi một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân trăm họ.
Bài thơ là những dòng chảy cảm xúc về thiên nhiên cũng như nỗi khát khao mong mỏi và tấm lòng yêu nước nồng nhiệt của Nguyễn Trãi. Bìa thơ tuy ngắn nhưng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh. Kết thúc bài thơ là tinh thần nhân nghĩa cao cả và tình yêu nhân dân vô bờ bến của ông.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, là một con người tài năng kiệt xuất. “Quốc âm thi tập” là một tác phẩm thơ Nôm vô cùng nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Bài thơ Cảnh ngày hè là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong tập thơ. Bài thơ là nơi mà tác giả đã gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của mình
Bài thơ Cảnh ngày hè thể hiện vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi. Bài thơ mang vẻ đẹp bình dị, tự nhiên, có sự đan xen câu lục ngôn và bài thơ thất ngôn. Mạch cảm xúc của bài thơ từ thư thái, thanh thản pha sắc thái bất đắc dĩ, có phần chán ngán đến hứng khởi, phấn chấn đó là mạch cảm xúc của Cảnh ngày hè.
Cảnh ngày hè hiện ra thật đẹp, đầy sức sống với những chi tiết cụ thể, sinh động: tán hoè xanh thẫm che rợp, thạch hựu bên hiên nhà còn phun màu đỏ, sen hồng trong ao ngát mùi hương, tiếng lao xao vọng lại từ làng chài, tiếng ve như tiếng đàn vang dội lên. Bức tranh cho thấy sức sống sinh sôi, rạo rực khắp nơi nơi.
Bức tranh ngày hè được hiện lên một cách nhàn tản nhưng vẫn sinh động và đầy sức sống. Cảnh sắc hè trước hết là bóng hòe, màn hòe. Lá hòe xanh thẫm, xanh lục. Cảnh hòe sum sê, um tùm, lá “đùn đùn” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:
Màu xanh của hòe, đỏ của lựu, sen hồng dưới ao.Tất cả hiện lên rực rỡ, màu sắc có sự hài hòa, tươi thắm. Ba loài cây với ba dáng vẻ khác nhau nhưng tất cả đều có hồn. Thiên nhiên ấy chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. Nguyễn Trãi đã chọn hòe, thạch lựu, sen hồng đưa vào thơ. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Sen trong ao làng đã “tiễn mùi hương” gợi không cảnh làng quê thanh bình, không khí thanh cao thoát tục. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp và cảm nhận vẻ đẹp của nó bằng nhiều giác quan.
Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống. Nguyễn Trãi không chỉ nhìn bằng mắt mà còn trải lòng mình để lắng nghe âm thanh muôn vẻ của thiên nhiên:
Chợ là hình ảnh thái bình trong tiềm thức của người Việt. Chợ đông vui thì đất nước thái bình thịnh trị, dân giàu đủ.Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp Cảnh vật yên vui bởi sự thanh thản đang xâm chiếm tâm hồn nhà thơ.Bức tranh thiên nhiên ấy đã thổi bùng lên trong ông khát vọng cháy bỏng:
Ngu cầm là cây đàn thần của Thuấn, vua Nghiêu, Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc với triều đại lý trị vì lý tưởng nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình. Nguyễn Trãi mơ chiếc đàn của vua Thuấn để gảy khúc nam phong cho dân được ấm no hạnh phúc. Câu thơ 6 chữ kết thúc nhấn mạnh niềm ước mơ ấy. Ước mơ rất đỗi bình thường mà vĩ đại, lãng mạn mà thực tế. Nó thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của ông. Lý tưởng dân giàu đủ khắp đòi phương của Nguyễn Trãi với hôm nay vẫn còn mang ý nghĩa thẩm mỹ. Câu kết cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ.
Nguyễn Trãi là một con người kiệt xuất của dân tộc ta, cả cuộc đời ông là một cuộc hành trình dài, nhiều gian lao về lý tưởng lo cho dân, cho nước. Công trạng cũng nhiều, ông là người đã có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực quân sự và nhiếp chính khi ông còn đương nhiệm làm quan. Một lòng một dạ trung quân, ái quốc, tấm lòng ấy có trời biết, đất biết, cũng rất được công nhận. Tuy nhiên, ông cũng phải chấp nhận lẽ đời mà ông không sao chống lại được. Cũng như bao con người trí thức, có tấm lòng biệt nhỡn liên tài nhưng không được trọng dụng, họ lại tìm đến những thú vui tao nhã điền viên – lâm tuyền để cân bằng lại cho mình những niềm tin, những hy vọng. Nguyễn Trãi cũng vậy, ông sớm nhận ra sự phù du của vòng danh lợi và rồi chọn cuộc sống ẩn dật, lánh đời, tự do tự tại, giúp tâm hồn có những khoảnh khắc thanh thản nhẹ nhàng lạ thường. Tuy nhiên, không phải ông đi lánh đờ là rũ bỏ hết trách nhiệm với đời mà ông vẫn quan tâm đến việc thế sự theo một cách rất riêng biệt.
Bài thơ miêu tả bức tranh ngày hè sinh động và tràn đầy sức sống. Sức sống của sự vật trong trong bức tranh tả cảnh mùa hè cũng thể hiện cảm xúc, niềm yêu đời trong tâm hồn nhà thơ.
Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới. Bài thơ là bức tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.
Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm thanh thoát đến thế:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”.
Nguyễn Trãi kia! Ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi, ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi, hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc đều xong xuôi, đã qua rồi. “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải đành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…
Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:
“Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no; chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi:
“Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” gảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói: dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.
Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng Ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.
Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Ông là người văn võ toàn tài, có cái tâm trong sáng, luôn sống ngay thẳng với phẩm cách trung thực, cao thượng. Nguyễn Trãi đã dành trọn cuộc đời mình để chiến đấu cho độc lập của dân tộc, cho sự bình yên, no ấm của nhân dân.
Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới) là một tác phẩm tiêu biểu trong tập Quốc âm thi tập – tập thơ Nôm đầu tiên trong lịch sử văn học viết Việt Nam. Bài thơ đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ và tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, đất nước của thi nhân.
Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình), thuộc phần Vô đề trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ được làm theo thể thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn. Những câu thơ trong Cảnh ngày hè có âm điệu du dương như những niềm vui nho nhỏ được Nguyễn Trãi chắt chiu trong cuộc đời vinh quang nhưng cũng đầy bi kịch của thi nhân. Bài thơ có thể chia thành hai phần: phần một (sáu câu thơ đầu) tái hiện cảnh ngày hè – cảnh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống của con người; phần hai (hai câu thơ còn lại) thể hiện khát vọng cao đẹp và tầm vóc tư tưởng của Nguyễn Trãi.
Được tổ chức theo kết cấu của một bài thơ thất ngôn bát cú nhưng bài thơ Cảnh ngày hè lại được mở đầu bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp 1/2/3 một cách tự do, tự nhiên như lời nói thường ngày:
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Câu thơ thất luật với kết cấu đặc biệt vang lên như một lời kể vui vẻ, thoải mái về những giây phút rảnh rỗi hiếm hoi trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Ông đã khởi đầu ngày mới bằng một tâm thế thư thái, an nhàn, tự do thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên. Có lẽ đây là khoảng thời gian mà ông đã lui về ở ẩn, rũ sạch những xa hoa của chốn phồn hoa đô hội để sống giữa thiên nhiên. Lời thơ giản dị mà gợi lên được sự thanh thản trong tâm hồn thi nhân. Với tâm trạng ấy, bức tranh thiên nhiên ngày hè được tái hiện bằng những nét rực rỡ, tươi tắn và đầy sức sống:
Bằng một cái nhìn trẻ trung, thi nhân đã lựa chọn những gam màu ấm và sáng để thể hiện khung cảnh thiên nhiên tươi tắn của ngày hè. Lựu đỏ, sen hồng là những gam màu nóng, khác hẳn với những sắc màu lạnh thường thấy của thơ ca trung đại. Dễ nhận thấy trong tứ thơ một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống. Tất cả mọi vật dường như đang trong tư thế trỗi dậy, muốn bộc lộ hết vẻ đẹp của mình. Cây hòe trước thềm khoe sắc với tán lá màu lục, cứ sinh sôi, nảy nở, sum suê “đùn đùn” lên mãi như muốn chiếm trọn không gian mà tỏa bóng; cây lựu bên hiên dồn hết sức của nhựa mầm non búp, bật nở ra những bông hoa đỏ rực rỡ; sen trong ao đã “tiễn” mùi hương – có nghĩa là đã ngát mùi hương – là sen đang ở độ đẹp nhất, lá xanh tươi, hoa thì tỏa hương thơm ngát, góp vào cái sức sống sôi động và mạnh mẽ của vạn vật để cùng phô diễn nhựa sông với cuộc đời. Có thể nói, qua bốn câu thơ đầu, Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh ngày hè đẹp, tràn đầy sức sống và rực rỡ màu sắc. Cảnh thiên nhiên ở đây không tĩnh vắng như những bức tranh thiên nhiên thường thấy trong thơ trung đại, trái lại rất sống động. Nó khiến ta cảm nhận được sự cựa quậy, sinh sôi của sự sống trong từng đường nét, màu sắc. Chính điều đó đã mang lại vẻ đẹp riêng, không thể trộn lẫn của bức tranh thiên nhiên trong bài thơ này. Nó cũng thể hiện tâm trạng thư thái và tâm hồn nghệ sĩ đặc biệt tinh tế, nhạy cảm trước thiên nhiên của Nguyễn Trãi.
Ở hai câu thơ tiếp theo, bức tranh ngày hè đã trở nên trọn vẹn khi xuất hiện cảnh sinh hoạt của con người:
Để miêu tả bức tranh sinh hoạt của con người, thi nhân đã chọn lựa địa điểm nhìn là chợ. Trong văn học, chợ vốn là một không gian truyền thông biểu hiện nhịp điệu của sự sống con người. Nguyễn Trãi đã sử dụng âm thanh “lao xao” của phiên chợ cá làng chài để gợi về nhịp sống sôi động, no đủ của một miền quê trù phú. Từ láy tượng thanh “lao xao” còn cho ta thấy được cả không khí náo nức, tươi vui của người dân chài trong cuộc sống yên ả, thanh bình. Bức tranh cuộc sống con người còn được tái hiện bằng hình ảnh “lầu tịch dương”. Hình ảnh một căn lầu vắng trong buổi chiều tà, xét về cả thời gian và không gian đều gợi buồn. Vậy mà, chỉ cần thêm vào chi tiết “Dắng dỏi cầm ve”, nhà thơ đã xóa đi hoàn toàn nỗi buồn ấy. Trong buổi chiều vắng, tiếng ve ngân lên rộn rã như tiếng đàn đã trở thành lời ngợi ca cuộc sống no đủ, bình yên. Nguyễn Trãi đã từng trải qua chiến tranh loạn lạc nên lại càng thấm thía ý nghĩa của cuộc sống yên ấm, hòa bình trong hiện tại. Qua đó, người đọc thấy được Nguyễn Trãi trân trọng cuộc sống đó biết bao! Nhưng hình như ẩn sâu trong những âm thanh “lao xao” của phiên chợ cá từ xa vọng lại, tiếng cầm ve ngân lên trong buổi chiều tà vẫn thấp thoáng một chút nỗi niềm bâng khuâng trong tâm hồn nhạy cảm của thi nhân. Nỗi niềm ấy như có một chút gì khắc khoải, như là sự mong mỏi, ngóng vọng vào một hành động cụ thể, thể hiện khát vọng cao đẹp của Nguyễn Trãi:
Nguyễn Trãi ước mình có được cây đàn của vua Nghiêu Thuấn ngày trước để ca ngợi cuộc sống hôm nay. Khát vọng ấy không chỉ giới hạn ở một miền quê, một vùng đất mà nó hướng tới mọi con người, mọi miền quê trên thế gian này. Đó là khát vọng lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi: mong ước sao cho muôn dân khắp bốn phương trời luôn được sống trong no đủ, thanh bình. Với niềm khao khát ấy, Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi đã có một cái kết thật bất ngờ. Hóa ra, Nguyễn Trãi không thực sự nhàn tâm để ngắm cảnh. Nỗi lo cho dân, cho nước vẫn luôn thường trực trong lòng thi nhân, đúng như lời tự bạch của nhà thơ:
Như thế, tinh thần chủ đạo trong Cảnh ngày hè không hoàn toàn là niềm vui rạo rực trước thiên nhiên, mà còn canh cánh một nỗi niềm thao thức muốn được khẳng định mình, muốn được đem hết sức lực, tâm huyết của mình ra để cống hiến cho dân, cho nước.
Nguyễn Trãi là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử trung đại Việt Nam. Ông là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn với tấm lòng yêu nước thương dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông cũng là người đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ ca tiếng Việt. Nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta không thể không nhắc đến một tập thơ được xem là tác phẩm mở đầu cho văn học chữ Nôm – “Quốc âm thi tập”. “Cảnh ngày hè” là một bài thơ tiêu biểu. Bài thơ là nỗi niềm và cảm xúc của Nguyễn Trãi trước bức tranh ngày hè.
“Cảnh ngày hè” là bài thơ thứ 43 trong 61 bài trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” là một bài thơ hay của “Quốc âm thi tập”. Bài thơ tả cảnh ngày hè, cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời yêu, nhân dân, yêu đất nước.
Sau câu thơ đầu tiên là cảm xúc của nhà thơ trước bức tranh cảnh ngày hè. Mở đầu bài thơ là câu thơ sáu chữ với nhịp 1/2/3 chậm rãi: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Chữ “rồi” là điểm nhấn đặt ở đầu câu, gợi trạng thái con người nhàn nhã, không vướng bận điều gì. “Ngày trường” có nghĩa là ngày hè dài. Câu thơ mở ra tâm thế nhàn hạ, ung dung của Ức Trai trước cảnh ngày hè. Đó cũng là tư thế ung dung, nhàn hạ của con người trong văn học trung đại. Bức tranh ngày hè hiện lên qua hình ảnh ba loại cây đặc trưng của mùa hè. Mỗi loài cây đều được miêu tả bằng những tính từ chỉ màu sắc và những động từ mạnh:
Cây hòe với màu xanh lục như cuộn lên từng khối biếc, từng chùm cứ như sinh sôi ngay trước mắt, cành lá xanh tươi tỏa rộng. Hoa lựu rừng rực sắc đỏ đồng loạt phun trào. Động từ “phun” diễn tả sức sống như bật ra, trào ra. Màu đỏ của hoa lựu như một nét rực rỡ trên nền xanh của lá. Điểm nhìn của nhà thơ từ tầng không tới hiên nhà tới tầng thấp là hoa sen để nhận ra sen hồng đã ngát mùi hương. “Tiễn” là ngát, là nức. Hương thơm tỏa ra khắp không gian, sức sống chất chứa từ bên trong đang phun trào. Thiên nhiên ở đây không tĩnh mà động, tưởng như sức sống bên trong đang trào ra: màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, màu hồng của sen đã được thôi thúc từ bên trong không kìm lại được mà tuôn trào hết lớp này đến lớp khác. Tất cả như hô ứng, đua nhau khoe sắc tỏa hương hợp thành vẻ toàn thực của mùa hè.
Bức tranh ngày hè rực rỡ sắc màu giờ đây còn rộn rã âm thanh. Đó là tiếng lao xao chợ cá làng chài vọng đến gợi sự đông đúc, nhộn nhịp với cuộc sống ấm no của con người: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”. Nó có thể là một phiên chợ có thật nhưng rất có thể đó là những âm thanh vọng lên trong tâm tưởng nhà thơ khi hướng về cuộc sống. Đó là âm thanh cuộc sống nơi dân dã, nơi làng quê. Cái “lao xao” gọi sự ồn ào, náo nhiệt, gợi vẻ sầm uất của cuộc sống xung quanh, là những xôn xao vang lên giữa nhịp sống hài hòa trường cửu của vũ trụ,…
Vẫn bằng một cái nghiêng tai rất sầu, nhà thơ đón bắt được một âm thanh rất quen dắng dỏi trong chiều tà: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”. Nắng tắt, chiều tàn, màn đêm đang buông xuống, cho dù là chốn lầu tịch dương thì cũng khó lòng tránh khỏi cảm giác quạnh hiu, cô độc. Dường như ấn tượng ảm đạm của triều tà hoàn toàn xua tan khi nhạc ve dắng dỏi, là âm thanh mạnh mẽ, dứt khoát l, trầm bổng ngân vang trong cảm nhận của tác giả. Âm thanh ấy trong cảm nhận của tác giả như tiếng đàn. Phải có một tâm hồn nhạy cảm, háo hức hướng về cuộc sống, Nguyễn Trãi mới có thể nghe được âm thanh như thế. Thời gian và cảnh vật đang ở cuối ngày nhưng sự sống dường như vẫn không dừng lại. Thêm một lần ta hiểu hơn niềm tha thiết hướng về cuộc sống của tác giả, hiểu hơn về tâm hồn luôn hướng về cuộc đời với nhiều ước vọng của Nguyễn Trãi.
Và trong khoảnh khắc đẹp đẽ ấy, tiếng Ngu cầm trong tưởng tượng được cất lên:
Hai câu thơ kết sử dụng điển “Ngu cầm” kể câu chuyện về cây đàn của vua Ngu Thuấn ca ngợi nền thái bình Thịnh trị với niềm vui sống tự hào. Hai từ “dễ có” – lẽ ra nên có, nổi lên trong câu thơ khi sử dụng điển tích “Ngu cầm” là mong ước có được cây đàn vua Nghiêu, vua Thuấn. Đó là ước mong được hòa điệu, được san sẻ niềm vui sống trong cảnh thái bình nhân dân. Cao hơn là một niềm mong mỏi về một cuộc sống an lạc cho người dân khắp mọi phương trời được duy trì vĩnh viễn như thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Có phải vì thế khi nghe kỹ tình thơ, ý thơ, ta nhận ra trong hai chữ “dễ có” một chút gì ưu tư, luyến tiếc và cả một chút ngậm ngùi. Những cảm xúc từ từ trở thành nét bất biến trong vẻ đẹp nhân cách lớn lao của Nguyễn Trãi được hậu thế muôn đời tôn quý, mới thấy cội nguồn vui sống của Nguyễn Trãi vẫn là cảnh quốc thái dân an. Chừng nào nhân dân chưa được thái bình thì ngày hè dẫu tưng bừng đến mấy thì niềm vui cũng không được trọn vẹn. Ước vọng ấy nâng tầm Nguyễn Trãi ngang tầm tư tưởng của một đấng quân vương. Cả bài thơ có tám câu, đến tận câu cuối chữ “dân” mới xuất hiện nhưng thực sự nó là cái nền chính, linh hồn bài thơ, thực sự là chìa khóa giải mã cho cái bất thường, cho cái dằng dặc của ngày hè.
Cả bài thơ tạo thành một liên tưởng thơ độc đáo với kết cấu đầu cuối tương ứng. Bài thơ có sự sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn tạo sự phá cách trong nhịp điệu, ngôn từ biểu cảm giàu sức gợi tài tình. Tất cả tạo nên một nhân cách nhà thơ ưu ái với dân, với nước. Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con người, với dân, với nước. Ước mơ đó, tấm lòng đó thể hiện tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi. Với ngày hôm nay nó vẫn mang ý nghĩa thẩm mỹ và nhân văn sâu sắc.
Bài thơ đẹp như một bức tranh thi trung hữu họa. Bài thơ giúp ta hiểu hơn về tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Trãi, bồi đắp cho chúng ta niềm yêu nước, thương dân trong trái tim.
Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như Bình Ngô đại cáo của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì Cảnh ngày hè là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Bài thơ đã thể hiện tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của nhà thơ.
Mở đầu, bài thơ đến với ta với những hình ảnh về thiên nhiên rực rỡ:
Từ “rồi” mở đầu câu thơ phải chăng nói đến tâm trạng “bất đắc chí” của nhà thơ. Câu thơ đầu chỉ vỏn vẹn với sáu từ nhưng đã khá đầy đủ về thời gian, hoàn cảnh, tâm trạng của nhà thơ. Đây chính là sự phá cách đầy sáng tạo của Nguyễn Trãi, ông đã Việt hoá thơ Đường luật vốn mỗi câu có đủ bảy từ. Lại thêm sự mới lạ với cách ngắt nhịp: một, hai, ba kết hợp với thanh bằng ở cuối câu làm câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng lại không giống lời than thở.
Xem bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi, trước hết ta thấy hình ảnh một con người ngồi đó – Câu mở đầu hóng mát ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi. Phải chăng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng vẫn hoà mình cùng thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên đã hiện ra trước mắt ông thật rực rỡ.
Ba câu thơ tiếp theo, dưới ngòi bút đầy tài năng của Nguyễn Trãi, một bức tranh thiên nhiên thật sống động và đầy màu sắc đã đến với chúng ta một cách chân thật nhất. Đó là màu xanh của cây hoè, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau, tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Mở đầu câu thơ là hình ảnh cây hòe – một loại cây đặc trưng ở vùng Bắc Bộ, rất dễ bắt gặp ở mọi nơi. Tính từ” đùn đùn “kết hợp với động từ mạnh “giương” đã góp phần diễn tả sự sum suê, nảy nở, làm cho cây hoè như có hồn hơn, làm bức tranh như sống động hơn.
Bên cạnh đó, không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khứu giác. Nhịp thơ 3/4 kết hợp với động từ mạnh” phun “làm cảnh vật dường như nổi bật hơn nhưng lại không chói chang, oi nồng mà mát dịu, tinh tế. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi”.
Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan toả đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông đã miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.
Và Cảnh ngày hè trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện trong những màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp mà còn qua nhịp sống sinh đẹp của nhân dân.
Hai từ láy “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với nhau đã thể hiện những âm thanh của làng chài quen thuộc – lao xao của chợ cá, rộn rã của tiếng ve. Ở đây, Nguyễn Trãi đã ngắm nhìn cuộc sống, cảm nhận cuộc sống với một tâm hồn rộng mở một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Tiếng lao xao, tiếng ve phải chăng là tiếng lòng ông, tiếng lòng của một vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, tiếng lòng của một người yêu thiên nhiên tha thiết. Thiên nhiên, cảnh vật ở vào thời điểm cuối ngày nhưng sự sống thì không dừng lại.
Cũng như Nguyễn Trãi, mặc dù đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông lúc nào cũng có một tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết. Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ, qua đó, thể hiện hết phần nào về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Ở đây, tác giả đã mượn điển tích để nói lên khát vọng của mình. Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn, nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài – tác giả khát khao đem tài trí thực hành tư tưởng yêu nước, thương dân, và đó cũng chính là tưởng chủ đạo của bài thơ. Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài.
Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Không có một lòng yêu quê hương, đất nước sâu đậm, ông không thể có một ước muốn như vậy. Không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể cảm nhận được hết vẻ đẹp mùa hè nơi một làng chài quê hương thanh bình. Và, không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể viết nên bài thơ Cảnh ngày hè làm xúc động lòng người như vậy.
Bài thơ tả cảnh ngày hè cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yên nhân dân, đất nước. Việt hoá thơ Đường luật, sáng tạo thơ thất ngôn xen lục ngôn, vận dụng hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh của cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của con người, hệ thống ngôn ngữ giản dị tinh tế xen lẫn từ Hán và điển tích chính là những nét nghệ thuật đặc trưng cho Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.
Bài thơ Cảnh ngày hè đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.
Nguyễn Trãi được biết đến là một vị anh hùng dân tộc đồng thời là thi nhân với những tác phẩm để đời. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng qua nhiều sáng tác và mỗi bài thơ đều mang tâm trạng và nỗi niềm sâu thẳm của ông. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bức tranh mùa hè nơi miền quê, đồng thời là lời giãi bày tâm sự của ông.
Advertisement
Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 254 bài và nổi bật là “Cảnh ngày hè”. Tìm hiểu bài thơ, người đọc đã được đến gần hơn với một bức tranh ngày hè sôi động, nhiều màu sắc, đồng thời qua đó thấp thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc sống và tâm tư đáng trân trọng của ông.
Câu thơ đầu tiên, ta đọc sao tâm thế của tác giả có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi ngồi dưới bóng cây nhàn nhã hóng mát. Đối lập giữa sự tất bật, bận rộn với công việc nơi triều chính và sự rỗi rãi hiếm hoi nơi làng quê. Câu thơ là một câu lục ngôn ngắt nhịp 1/2/3, chữ “rồi” đứng riêng một nhịp vừa nhấn mạnh cảm giác rỗi rãi, vừa như một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “thuở ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Ba chữ “thuở ngày giác trường” – nhịp dài nằm cuối câu càng làm cho một ngày như dài thêm, cảm giác thư thái, sự sảng khoái sung sướng như kéo dài ra.
Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Đối lập giữa bức tranh ngày hè tràn đầy hình ảnh, màu sắc, âm thanh với chốn quan trường tù túng thiếu sinh khí. Theo Nguyễn Trãi trở về với thiên nhiên là cách tốt nhất để thanh lọc tâm hồn, hồi sinh sức sống. Bức tranh thiên nhiên trong những câu tiếp theo thực chất là quan niệm sống, bức tranh tâm hồn của Ức Trai:
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Ba câu thơ có rất nhiều động từ vận động diễn tả trạng thái xô đẩy cựa quậy, sự vận động từ bên trong của sự vật muốn trào phun ra ngoài “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ “đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ “rợp”.
Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…
Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:
Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ “lao xao” đến “dắng dỏi”. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã.
“Lao xao” lúc này chính là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyễn Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phủ để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dễ tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển.
Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ.
Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vẫn đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.
Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn, lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:
Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc.
Hơn nữa, không phải riêng cho dân mình mà ông muốn cuộc sống đó phải “đủ khắp đòi phương” nghĩa là cho muôn dân trên mọi nơi. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình không chấp nhận Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.
Thời gian trong bài thơ diễn ra trong một ngày nhưng hình ảnh sự vật được bao quát rất lớn có xa – gần, cao – thấp, rộng – hẹp, hiên, ao, lầu, làng, chợ; có hiện tại tương lai; có thiên nhiên con người cuộc sống; có đa âm thanh, đa đường nét, đa màu sắc; có bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh, có tình yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống; và có cả những lời giáo huấn sâu sắc về cách sống phải luôn hướng về đời sống của muôn dân trăm họ. Bài thơ xứng đáng được người đời đánh giá cao và trân trọng.
“Cảnh ngày hè” đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng Ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu. Quả thực, Nguyễn Trãi xứng đáng với câu thơ của vua Lê Thánh Tông “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.
………
Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Bài Thơ Tôi Yêu Em Của Puskin (Dàn Ý + 10 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 11 Hay Nhất
Phân tích Tôi yêu em của Puskin
Dàn ý phân tích bài thơ Tôi yêu em
Phân tích Tôi yêu em
Phân tích Tôi yêu em hay nhất
Phân tích bài thơ Tôi yêu em ngắn gọn (5 Mẫu)
Phân tích bài thơ Tôi yêu em đầy đủ (3 Mẫu)
Dàn ý phân tích bài thơ Tôi yêu emI. Mở bài: giới thiệu bài thơ Tôi yêu em
II. Thân bài: phân tích bài thơ tôi yêu em của Puskin
1. Bốn câu thơ đầu:
– Suy nghĩ về tình yêu của mình, có sự yêu thương và độc lập, có gì đó như là một phần trong anh
– Tác giả cho rằng tình yêu không phải là chiếm hữu mà là cho đi, nghĩ là nghĩ cho người mình yêu.
2. Hai câu thơ 5-6:
– Tình yêu như sóng dâng tràn bờ, lí trí con người không thể khống chế được cảm xúc, tình yêu của mình
– Tình yêu thắng lí trí, thể hiện sự khát vọng được thể hiện tình yêu, giãi bày tất cả
3. Hai câu thơ 7-8:
– Lời cầu chúc, khẳng định sự tôn thờ tình yêu
– Khẳng định tình yêu không bị dập tắt
– Trân trọng tình yêu đối với người hơn tình yêu bản thân mình
– Tình yêu chân thành
III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ tôi yêu em của Puskin
Ví dụ:
Qua bài thơ tôi yêu em của Puskin ta có thể cảm nhận được tình yêu nồng cháy và say đắm của tác giả dành cho người mình yêu, muốn giải bày tâm sự với người thương.
Phân tích Tôi yêu emPuskin được mệnh danh là “Mặt trời của thi ca Nga” với những tác phẩm vô cùng xuất sắc viết về tình yêu. Hồn thơ của Puskin thường nói đến vẻ đẹp nội tâm con người cùng lòng nhân ái của tâm hồn nhân loại. Trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, “ Tôi yêu em” là một khúc ca về tinh yêu với đầy đủ cung bậc cảm xúc khi yêu, có thổn thức, có mong nhớ nhưng cũng nhiều nuối tiếc về mối tình đơn phương của tác giả.
“Tôi yêu em” dường như là một lời giãi bày tình cảm của tác giả một cách chân thành và sâu sắc nhất.
Câu thơ cất lên một cảnh giản dị, chân thành như chính nỗi lòng của tác giả đang gửi gắm đến người mà mình yêu thương. Từng câu thơ chậm rãi, mang theo chút ngượng ngùng nào đó. Tác giả dùng từ “ chừng có thể, chưa hẳn” để nói về sự vương vấn gì đó chưa thật sự dứt khoát. Tác giả có lẽ đang sợ điều gì đó, sợ mình làm cho người ta sợ. Mặc dù vậy nhưng câu thơ phần nào đã bày tỏ được tình yêu say mê của tác giả, đó là tình cảm đã xuất phát từ lâu lắm rồi chứ không phải chỉ mới bắt đầu.
Ở hai câu thơ tiếp theo, bỗng nhiên giọng thơ thay đổi hoàn toàn:
Tình cảm trong trái tim của người dù đã rõ ràng rồi, nhưng nhân vật lại không muốn làm khó đối phương, làm cho người ta phải khó xử. Một trái tim yêu nồng nàn nhưng cũng rất lý trí. Hai câu thơ được ngắt ra bởi từ “ nhưng”, thể hiện sự dứt khoát, rõ ràng đối với người con gái. Nhân vật “ tôi” tự ý thức được bản thân mình thế nào, dù có phải chịu ấm ức hay chuyện gì thì cũng không muốn để người con gái phải bận lòng thêm. Có lẽ nhân vật lúc này sẽ cảm thấy rất buồn và suy nghĩ, khi không biết đối phương đang nghĩ gì và muốn gì. Nhân vật “ tôi” thật sự có một trái tim đa sầu đa cảm , biết nghĩ cho cảm xúc của người khác chứ không chỉ biết đến bản thân mình. Cảm xúc của nhân vật “ tôi” ở đây chắc chắn đang bị dồn nén, không được thoát ra, không được bày tỏ khiến cho nhân vật trở nên khó chịu mà không biết tỏ cùng ai.
Nhưng rồi cảm xúc bỗng nhiên vỡ òa ở bốn câu thơ tiếp. Tình yêu là như vậy, cảm xúc không thể giữ lại trong trái tim, mà phải được bật tung ra. Điệp từ “ tôi yêu em” một lần nữa xuất hiện, như lời khẳng định chắc chắn về tình yêu của chàng trai:
Tình yêu của chàng trai vẫn vậy, vẫn vẹn nguyên như thế nhưng giờ đây không chỉ giấu ở trong tim nữa mà đã được giãi bày thẳng thắn với cô gái. Bởi lẽ dù tình yêu âm thầm, không hi vọng nhưng đó dù sao cũng là tình cảm chân thành, không gian dối. Những câu thơ với nhịp thở trở nên nhanh hơn, dồn dập hơn, như là nhịp đập của con tim người đang yêu nồng nàn và mãnh liệt.
Điều đặc biệt xuất hiện ở câu thơ cuối, câu thơ được coi là điểm nhấn của bài thơ. Câu nói của nhân vật rất khéo léo, tinh tế khi thể hiện được tình cảm của bản thân, nhưng cũng thể hiện được sự vị tha, hi sinh vì hạnh phúc của người mình yêu. Có lẽ nhà thơ đang tự khẳng định một lần nữa tình yêu dành cho người con gái. Dù không được đền đáp nhưng tình yêu đó vẫn mãnh liệt và không chấm dứt. Tình yêu đó là một thứ tình yêu cao cả, và đáng khâm phục. Nhưng đâu đó trong tình yêu vẫn có chút ghen tuông, hờn giận. Bởi nếu không ghen thì đã không nghĩ đến người khác cũng dành tình cảm cho cô gái. Một bản hợp xướng tuyệt vời với đầy đủ cung bậc cảm xúc trong tình yêu, những điều không thể thiếu của những người đang yêu.
“Tôi yêu em“ là một bài thơ vừa chân thật, gần gũi nhưng cũng vô cùng lãng mạn, đẹp đẽ. Đây được coi là một bài thơ tình xuất sắc, không thể thay thế của Puskin khi miêu tả được đầy đủ những cung bậc cảm xúc của tình yêu theo một cách tinh tế nhất.
Phân tích Tôi yêu em hay nhấtA-lếch-xan-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Pu-skin (1799 – 1837) đã có những đóng góp lớn lao cho sự phát triển của nền văn học Nga và thế giới nửa đầu thế kỉ XIX. Mặc dù xuất thân từ tầng lớp đại quý tộc nhưng cuộc đời Puskin lại gắn bó sâu sắc với số phận của nhân dân, đất nước. Nhà thơ dũng cảm đấu tranh chống chế độ chuyên chế độc đoán của Sa hoàng. Những sáng tác của Puskin thể hiện tâm hồn Nga đôn hậu, trong sáng, khao khát tự do và tình yêu.
Tài năng văn chương của Puskin hết sức đa dạng, ông viết được nhiều thể loại và thể loại nào cũng có những tác phẩm được đánh giá là kiệt tác nghệ thuật, tiêu biểu như: Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin (tiểu thuyết thơ), Con đầm pích (truyện ngắn), Bô-rít Gô-đu-nốp (kịch lịch sử),.. Tình yêu là nguồn cảm hứng mạnh mẽ, bất tận trong thơ Puskin. Vì thế nên thơ lãng mạn của ông thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả. Puskin viết về tình yêu như một sự thôi thúc, khám phá.
Qua thơ ông, những cung bậc tình cảm đa dạng, những sắc thái cảm xúc phong phú, những rung động thầm kín của con tim, những ấn tượng khó nắm bắt của tình yêu con người được diễn tả vô cùng chân thực. Sức hấp dẫn tuyệt vời trong thơ tình yêu của Puskin chính là sự chân thành, cao thượng được thể hiện bằng nghệ thuật ngôn từ điêu luyện. Tôi yêu em là bài thơ thể hiện thành công điều đó.
Dịch nghĩa:
Dịch thơ:
Bài thơ dường như là lời từ giã của một mối tình đơn phương vô vọng. Điểm độc đáo là lời từ giã này cũng chính là lời giãi bày, thổ lộ, bộc bạch của trái tim yêu luôn sôi nổi, nồng nàn. Bài thơ hấp dẫn người đọc không phải bằng ngôn từ cầu kì, trau chuốt mà là bằng tình cảm chân thành, xúc động, giống như những đợt sóng lúc sôi nổi dạt dào, lúc dịu êm, sầu lắng. Bố cục bài thơ có thể chia làm ba phần: Bốn câu đầu: Những mâu thuẫn giằng xé. Hai câu giữa: Nỗi khổ đau tuyệt vọng. Hai câu cuối: Sự cao thượng chân thành.
Nhân vật em trong bài thơ là Ô-lê-nhi-na, một thiếu nữ xinh đẹp mà Puskin yêu say đắm và đã dành cho nàng những vần thơ ca ngợi. Mùa hè năm 1828, thi sĩ đã ngỏ lời cầu hôn nhưng nàng không chấp nhận. Nỗi thất vọng đắng cay âm thầm ấy là nguyên nhân ra đời của bài thơ nổi tiếng này. Có thể xem đây là một câu chuyện tình thu nhỏ.
Cảm xúc chủ đạo của bài thơ được nhấn mạnh qua điệp khúc Tôi yêu em. Ba lần điệp khúc này vang lên, mỗi lần gắn với một cung bậc tình cảm và diễn biến tâm trạng khác nhau của nhân vật trữ tình. Tình yêu mà thi sĩ dành cho người con gái ấy đã được thử thách qua thời gian.
Thi sĩ khẳng định thời gian không thể làm cho tình yêu ấy phôi pha và ngọn lửa tình yêu không bao giờ tắt trong lòng mình. Đại từ em được dùng với ý trân trọng, tạo cảm giác vừa thán thiết, vừa xa cách. Cụm từ Tôi yêu em mở đầu bài thơ là lời thú nhận tình yêu chân thành của nhân vật trữ tình:
Âm điệu thơ ngập ngừng, đứt quãng, giống như nhịp đập bất thường của trái tim đang thổn thức bởi trĩu nặng nỗi đau. Cảm xúc thơ dàn trải, lan toả, phù hợp với tâm trạng suy tư, trái trở, day dứt của nhân vật trữ tình về tình yêu đơn phương của mình.
Những cụm từ có thể, chưa hẳn biểu thị tính chất khó xác định dứt khoát của tâm hồn, tình cảm. Nhân vật trữ tình không giấu giếm những uẩn khúc trong lòng mình. Trong trái tim thi sĩ, hình bóng người con gái đáng yêu không dễ phai mờ và tình yêu dành cho nàng chưa hẳn đã tàn phai bởi ngọn lửa si mê vẫn âm ỉ cháy. Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm được thể hiện khá rõ, qua đó Puskin đã bày tỏ khát vọng tình yêu cùng những băn khoăn, day dứt trong tâm trạng của nhân vật trữ tình – hình bóng của chính thi sĩ.
Đến câu thơ 3 và 4, mạch thơ đột ngột chuyển hướng. Cụm từ phủ định Nhưng không như nhấn mạnh một quyết định dứt khoát: Nhân vật trữ tình tự buộc mình phải cố mà quên và dường như đã phải dùng đến sự cương quyết của lí trí để chế ngự trái tim đang rớm máu. Tôi yêu em tha thiết, nồng nàn nhưng lại không muốn em phải bận lòng thêm nữa.
Tình cảm của nhân vật em được hé mở qua hai từ: bận lòng và u hoài. Người đọc có thể thấy được sự éo le trong quan hệ tình cảm của nhân vật trữ tình và thiếu nữ anh yêu. Tình yêu của nhân vật trữ tình (Tôi) không đem lại niềm vui và hạnh phúc mà chỉ mang lại nỗi bận lòng và sự u hoài cho em mà thôi.
Đó là điều đau xót và đáng tiếc. Tôn trọng người mình yêu, nhân vật trữ tình lòng tự nhủ lòng phải cố quên đi tình yêu đơn phương, cho dù nỗi khổ đau đang giằng xé tâm hồn:
Điệp khúc Tôi yêu em mở đầu khổ thơ thứ hai gắn liền với các động từ chỉ trạng thái. Mỗi từ như cô đặc một trạng thái cảm xúc cụ thể: nỗi đau khổ âm thầm, niềm tuyệt vọng, sự rụt rè lẫn hậm hực lòng ghen. Chỉ qua hai câu thơ mà tưởng như những tình cảm giấu kín tận đáy sâu tâm hồn đã được bày tỏ và thi sĩ đã thể hiện rất thật cảm xúc của mình lúc này Những từ phủ định liên tiếp nhấn mạnh tính chất đơn phương của mối tình và cho thấy nhân vật trữ tình luôn băn khoăn, đau khổ.
Anh đã chân thành giãi bày tất cả những yếu đuối, bất lực, những góc khuất của tâm hồn – một tâm hồn yêu đương cháy bỏng trong âm thầm, cuồng nhiệt trong vô vọng, đắm đuối đến bối rối, âu lo, thắc thỏm; một tâm hồn vật vã trăn trở, day dứt, không biết đến sự nhẹ nhõm, an bình, thanh thản.
Câu thơ nói đến sự bị động tiêu cực mà lại làm hiện lên những nhịp đập sôi nổi, mạnh mẽ tràn đầy sinh lực của trái tim yêu. Những từ lúc, khi góp phần diễn tả biến động dồn dập trong cảm xúc của nhân vật trữ tình. Tôi biết em không nhớ tới tôi nhưng lúc nào trái tim tôi cũng hướng về em, bồn chồn day dứt và cả sự hậm hực đến cồn cào của lòng ghen bị dồn nén.
Trong tình yêu, yêu và ghét là hai trạng thái vừa đối lập vừa thống nhất, giống như hai mặt của một tờ giấy. Ghét thực ra cũng là một biểu hiện của tình yêu nhưng xét về bản chất, đó là biểu hiện của thứ tình yêu sở hữu ích kỉ. Lòng ghen tuông mù quáng dễ làm cho con người rơi vào sự nghi kỵ thấp hèn. Đối với Puskin, ghen tuông gợi nỗi buồn đen tối. Nhấn mạnh lòng ghen, câu thơ gợi tâm trạng nặng nề, u ám. Tưởng như nhân vật trữ tình đang rơi vào vực sâu của nỗi đớn đau, tuyệt vọng.Điệp khúc thứ ba Tôi yêu em gắn với hai câu thơ cuối:
Cảm xúc bị kìm hãm trong hai câu thơ trước giờ đây như được giải tỏa bởi tình yêu cao thượng, chân thành, đằm thắm. Nhịp điệu chậm rãi cùng âm hưởng da diết, sâu lắng góp phần diễn tả cảm xúc thiết tha và đem lại cho câu thơ sức hấp dẫn lạ lùng, vượt lên nỗi buồn đau u ám và lòng ghen tuông ích kỉ, nhân vật trữ tình cầu chúc: Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.
Tuy nhiên, đây không đơn thuần chỉ là lời cầu chúc tế nhị thay cho lời vĩnh biệt một tình yêu không thành mà còn vừa mang niềm nuối tiếc, xót xa vừa ẩn chứa sự tự tin và niềm kiêu hãnh. Có thể sẽ chẳng có người nào yêu em chân thành, đằm thắm như tôi đã yêu em. Cũng có thể tôi và em, chúng ta đã để mất một tình yêu quý giá chẳng thể tìm lại được bao giờ. Câu thơ cuối là lời khẳng định, là sự thăng hoa của tình yêu cao thượng. Nó đã đưa tình yêu lên ngôi, làm chói sáng nhân cách của con người.
Bài thơ Tôi yêu em đã phản ánh sinh động tâm hồn trong sáng và tình yêu chân thành của nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình đã vượt lên thói ích kỷ thường tình để trao gửi đến người mình yêu ước mong cho nàng được hạnh phúc. Chàng trai ấy đã giữ lại những khổ đau dằn vặt cho riêng mình để dâng hiến cho người con gái mình yêu tất cả những gì đẹp nhất của tình yêu.
Dẫu là lời từ giã tình yêu song nỗi buồn ở đây không sướt mướt, ủy mị mà nhân hậu, vị tha. Đó là tình yêu biết vượt qua những dục vọng ích kỷ của bản thân để cầu mong cho người mình yêu được hạnh phúc.
Phân tích bài thơ Tôi yêu em ngắn gọn Bài làm mẫu 1Từ khi loài người biết yêu và biết làm thơ đã có thơ về tình yêu. Tình yêu là đề tài luôn luôn xưa cũ và cũng luôn luôn mới mẻ. Mỗi thi nhân khi đến với đề tài huyền diệu này đều có những phát hiện riêng. Những bài thơ tình hay nhất không hẳn là những bài thơ có hình thức đẹp đẽ, ngôn từ bóng bẩy, mà điều quan trọng là tiếng nói chân thành nơi trái tim yêu đã làm rung động bao trái tim khác, khi họ đến với tình yêu tạo nên một sự cộng hưởng sâu xa trong tâm hồn nhân loại. Tôi yêu em của Puskin là một bài thơ như thế. Bằng một cách nói giản dị, chân thành, Puskin đã dạy cho con người biết yêu một cách cao thượng và nhân văn.
Puskin là nhà thơ Nga thiên tài – người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học và nền văn học Nga phong phú, đậm đà tính dân tộc. Nhà thơ nổi tiếng Giu-cốp-xki đã coi Pu-skin là “người khổng lồ tương lai”. Khát vọng tự do thấm đượm trong thơ Puskin. Ông là người ca sĩ của tự do. Puskin còn là ca sĩ của tuổi trẻ. Tình bạn, tình yêu là cảm hứng trong rất nhiều sáng tác của ông.
Tôi yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng của Puskin, của thi ca Nga và của cả nền thơ ca thế giới. Bài thơ được sắp xếp liền mạch 8 câu, không chia thành các khổ thơ. Toàn bài có hai câu thơ lớn, mỗi câu 4 dòng thơ. Như vậy, trên thực tế bài thơ như gồm hai phần, cả hai phần đều bắt đầu bằng cùng một cụm từ Tôi yêu em. Thoạt nhìn tưởng như ý quẩn, trùng lặp, đọc kĩ mới thấy ý thơ ào ạt trào lên:
Con sóng sau dữ dội, mãnh liệt hơn con sóng trước. Hình thức lặp lại nhưng cảm xúc có sự khác biệt.
Xét bề ngoài câu chữ, nhân vật trữ tình dường như thông báo việc rút lui chối bỏ say mê, dập tắt lửa tình (nhưng không để em bận lòng thêm nữa, hay hồn em phải gợn bóng u hoài). Đó là trật tự lôgic trong cách giãi bày tình cảm của nhân vật trữ tình. Nhưng trật tự logic đó chỉ là bề ngoài, còn trong sâu thẳm tâm linh, mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình cuồn cuộn chảy, bất chấp logic. Không nén được cảm xúc đó cứ bật lên như một điệp khúc: Tôi yêu em.
Hãy bàn rộng một chút về cách dùng đại từ nhân xưng trong bài thơ, cách dùng đại từ nhân xưng trong câu chuyện tình yêu là cả một vấn đề. Người dịch đứng trước nhiều lựa chọn: Tôi yêu chị/ Tôi yêu cô/ Tôi yêu em/ Anh yêu em. Kiểu xưng hô trước có phần trang trọng, khách khí. Kiểu xưng hô sau lại quá tha thiết. Người dịch chọn kiểu xưng hô tôi yêu em là thỏa đáng vì nó nói lên đúng quan hệ vừa gần, vừa xa, vừa đằm thẳm, vừa dang dở giữa nhân vật trữ tình.
Tôi yêu em là cách nói không mới nếu không muốn nói là đã trở nên rất quen thuộc và xưa cũ. Trong lịch sử ngôn ngữ học, từ khi loài người biết yêu đã có cụm từ này. Tuy nhiên, với mỗi người khi bước vào tình yêu nó luôn luôn mới, đặc biệt mới ở cách thể hiện. Con người luôn chờ mong ở lời thổ lộ ấy những khao khát, đam mê, hồi hộp, những ngọt ngào, tha thiết,…
Trong bài thơ, “Tôi yêu em” lặp lại nhiều lần như một điệp khúc. Đó vừa là một cách khẳng định không chút hồ nghi, băn khoăn, do dự, vừa là một sự thú nhận với tất cả sự chân thành thốt lên từ đáy lòng. Đó là khát vọng cháy bỏng của một trái tim yêu muốn được đáp lại. Đó còn là một lí luận của tình yêu: Tôi có quyền yêu em cho dù em có yêu tôi hay không. Tình yêu là thế. Lí luận của con tim nhiều khi bất chấp lí luận của khối óc.
“Ngọn lửa tình” có lúc bùng lên mãnh liệt, có lúc thầm lặng âm ỉ nhưng đó là cái âm ỉ của một, ngọn núi lửa lúc nào cũng có thể phun trào. Tình yêu âm thầm, đơn phương, có lúc chông chênh “không hi vọng” hỡi nhân vật trữ tình nhiều khi có cảm giác “tôi tìm em, em tìm ai?”. Yêu một người là hạnh phúc vì yêu vì khổ đau vì cảm giác tình yêu không được đền đáp. Nhân vật trữ tình có lúc rụt rè như một chàng trai mới lớn không dám đến gần để rồi ghen với cả những ánh mắt qua đường. Puskin trong thơ tình của mình đã nói rất nhiều về lòng ghen:
Tuy “hậm hực lòng ghen” nhưng nhân vật trữ tình là người dịu dàng, tao nhã, văn hóa tình yêu thể hiện khá rõ. Nét nổi bật nhất trong nhân cách yêu là “chân thành, đằm thắm”, đằm thắm, chân thành ngay cả khi “không hi vọng”. Đó là một mối tình tự nguyện, một tình cảm trọn vẹn dành cho người mình yêu.
Tóm lại, tình cảm của nhân vật trữ tình đầy đủ mọi sắc thái, mọi cung bậc, vừa rất con người với những đam mê, những hờn ghen, vừa mang tính lí tưởng bởi yêu hết mình và hiến dâng trọn vẹn.
Điều bất ngờ ở câu thơ kết là nhân vật trữ tình mặc dù “yêu chân thành, đằm thắm vẫn cầu mong cho người mình yêu có được người yêu “như tôi đã yêu em”. Theo logic thông thường, người ta sẽ cầu mong cho người mình yêu cũng yêu mình. Tình yêu cao thượng đã khiến nhân vật trữ tình vượt lên trên cái logic thông thường đó, mang đến cho câu thơ nhiều hàm chứa ý vị. Yêu và trân trọng người mình yêu bởi nếu em không yêu tôi thì em đâu có lỗi. Có chăng là vì thần tình yêu đùa ác đã bắn mũi tên tình ái vào trái tim tôi mà không qua trái tim em.
Câu thơ như một lời nhắn nhủ: Em hãy yêu người yêu em chân thành, đằm thắm nhất, mãnh liệt nhất, “như tôi đã yêu em”. Dường như ẩn chứa trong đó còn có chút gì như là ý vị mỉa mai: “Nếu không có sự can thiệp của siêu nhiên thì vị tất nữ nhân vật còn gặp được một tình yêu khác giống như thế. Điều đó có nghĩa là: Không một ai yêu em như tôi đã yêu em!
Câu thơ còn biểu hiện một niềm hi vọng, một khát vọng thánh thiện giàu tính nhân văn: Tình yêu chân thành lẽ nào không được đền đáp. Em cứ đi tìm. Tôi vẫn chờ đợi. Có thể em chưa nhận ra tôi chính là tình yêu thượng đế mang đến cho em nhưng rồi một ngày nào đó em sẽ nhận ra. Đó chính là sự gặp gỡ của những trái tim nhân văn cao cả.
Nhân vật trữ tình đã vượt lên thói ích kỉ tầm thường. Câu thơ đưa tình yêu lên ngôi, làm sáng chói nhân cách của nhân vật trữ tình: yêu tha thiết, mãnh liệt và trong sáng vô cùng, cao thượng vô cùng. Tôi yêu em phảng phất nỗi buồn của mối tình đơn phương nhưng là nỗi buồn trong sáng của một tâm hồn yêu đương chân thành, mãnh liệt, nhân hậu, vị tha. Bài thơ dạy cho người ta biết yêu một cách cao đẹp.
Lời giãi bày tình yêu của Puskin được thể hiện bằng hình thức giản dị mà tinh tế. Chất thơ của bài thơ chính là sự thành thực của người làm thơ “lòng nhân ái làm xúc động lòng người ở vẻ diễm lệ nghệ thuật của nó” (Bi-ê-lin-xki). “Đối tượng tự nó hấp dẫn đến mức chả cần gì đến sự tô vẽ điểm nào cả” (Puskin).
Bài làm mẫu 2Tình yêu không còn là đề tài xa lạ đối với các thi nhân, nó trở thành nguồn cảm hứng dào dạt khiến họ tốn biết bao giấy mực. Yêu và được yêu luôn là niềm mong muốn của mỗi chúng ta. Tuy nhiên không phải yêu thương nào trao đi cũng được đáp lại một cách trọn vẹn. Có thể nói, Puskin đã rất thành công ở việc thể hiện những cung bậc cảm xúc trong tình yêu đơn phương của một chàng trai qua bài thơ “Tôi yêu em”.
Puskin là “Mặt trời của thi ca Nga”. Tài năng của ông được thể hiện trên các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, trường ca, truyện ngụ ngôn, những thể loại mà ông thành công nhất là thơ trữ tình với hơn tám trăm bài thơ. “Tôi yêu em” là tác phẩm nổi tiếng của thi sĩ lừng danh được khơi nguồn từ mối tình cảm đơn phương với nàng A. Ô-lê-nhi-na. Puskin đã cầu hôn nàng vào mùa hè năm 1829 nhưng không được chấp nhận. Đây cũng là nguyên nhân khiến ông viết nên bài thơ này.
Nhan đề bài thơ do Thúy Toàn đặt. Nó ẩn chứa dụng ý và sự tinh tế của người dịch khi không đặt nhan đề là “Anh yêu em” hay “Tôi yêu cô”. “Tôi yêu em” là một nhan đề hợp lí. Bởi lẽ cách xưng hô “Anh – em” quá thân thiết, tình cảm trong khi mối quan hệ của Puskin và Ô-lê-nhi-na không hẳn như vậy còn cách xưng hô “Tôi – cô” lại quá xa lạ, ít bộc lộ cảm xúc. Vì vậy, không có nhan đề nào phù hợp hơn là “Tôi yêu em” để diễn tả mối quan hệ không phải người dưng nhưng cũng không quá gần gũi, tình cảm.
Pu-skin đã khắc họa những giằng xé trong tâm trạng của nhân vật trữ tình bằng những lời thơ giản dị:
Tác giả đã khẳng định tình cảm của mình dành cho cô gái qua cụm từ “Tôi yêu em” mở đầu bài thơ. Đây là thứ tình cảm chân thành, đằm thắm, không chút vụ lợi, toan tính. Chàng trai ấy không mượn những hình ảnh ẩn dụ để bày tỏ tình cảm mà anh lại trực tiếp nói ra những tâm tư trong lòng mình. Khi yêu đơn phương, không phải bất cứ ai cũng có đủ can đảm để nói ra điều đó. Biết rằng tình yêu ấy không được em chấp nhận nhưng nó vẫn bùng cháy trong trái tim “tôi”, khiến “tôi” bồi hồi không yên. Ngọn lửa tình yêu cứ âm ỉ cháy, nó chưa tắt hẳn và cũng chưa “tàn phai” trong tâm hồn của nhân vật trữ tình. Đó là một tình yêu chung thủy chứ không phải thứ tình cảm mua vui, trêu đùa. Vậy nên chàng trai mới có sự vấn vương, không dứt khoát. Tâm trạng này được nhà thơ thể hiện qua các từ ngữ “chừng có thể”, “chưa hẳn”, để khẳng định tình yêu “tôi” dành cho em là sự thật.
Nhưng tình cảm là thứ không thể gượng ép. Chúng ta không thể bắt buộc ai đó yêu mình nếu như bản thân họ không muốn. Chàng trai trong mối tình đơn phương kia cũng như vậy, anh không muốn cô gái vì anh mà phải bận lòng, suy nghĩ hay u buồn vì bất cứ điều gì nữa:
Nhân vật trữ tình đã đưa ra một quyết định mang tính lí trí và đầy sự dứt khoát. Nếu tình yêu của anh không mang lại cho cô gái niềm hạnh phúc mà chỉ khiến cô phải khó xử, băn khoăn thì tốt hơn hết là anh nên chấm dứt tình yêu ấy. Anh sẵn sàng hi sinh tình yêu của mình để đổi lấy sự thanh thản trong tâm hồn của người anh yêu. Hành động của nhân vật thật cao thượng và đáng ngưỡng mộ. Có mấy ai làm được như vậy bởi khi đắm say trong tình yêu trần thế con người ta rất dễ mù quáng, họ không ý thức được hành động của bản thân, thậm chí có thể bất chấp các thủ đoạn để tìm mọi cách chiếm đoạt được người mình yêu mà không quan tâm đến chuyện người ấy thực sự có tình cảm với mình hay không.
Liệu rằng sẽ có bao nhiêu người hành động cao thượng như chàng trai trong bài thơ này? Anh tôn trọng người con gái và nhận lấy những đau khổ, buồn bã về mình. Chắc hẳn anh đã có cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt nhưng vượt lên trên tất cả, anh luôn mong người ấy được hạnh phúc. Nhân vật trữ tình tự chối bỏ tình yêu, chối bỏ những cảm xúc say đắm của mình và nhẫn tâm dập tắt đi ngọn lửa tình đang ấp ủ để cô gái không phải suy tư về anh nữa.
Trong tình yêu luôn tồn tại những trạng thái cảm xúc khác nhau, khi thì nồng nàn, tha thiết, khi lại giận dỗi, hờn ghen:
Vì là tình cảm đơn phương nên nó diễn ra trong sự “âm thầm”, im lặng không được ai khác biết đến và cũng không có nhiều hi vọng, niềm tin vào tương lai. Chàng trai có lòng ghen nhưng cũng chỉ riêng bản thân mình biết và chịu đựng điều đó. Anh yêu cô gái chân thành, mãnh liệt nhưng cũng có lúc “rụt rè”, “hậm hực” bởi không được thể hiện những cảm xúc của bản thân. Tình yêu luôn đi đôi với sự ghen tuông, nó là một trong những biểu hiện của tình yêu đôi lứa. Nhưng nhân vật trữ tình lại ghen trong âm thầm, ghen nhưng không được nói ra mà lại phải chịu những nỗi đau, nỗi tuyệt vọng giày vò, giằng xé tâm can. “Tôi yêu em chân thành như thế, dịu dàng như thế” nhưng không được em đền đáp. Phải chăng chàng trai đang trách móc cô gái? Câu thơ mang nặng nỗi buồn u ám, sự nặng nề trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Dường như, anh đang rơi vào sự tuyệt vọng, bất lực khi không có tư cách gì để thể hiện những trạng thái đó với người mình yêu.
Điệp ngữ “Tôi yêu em” được lặp lại ba lần trong bài thơ có ý nghĩa nhấn mạnh, khẳng định tình cảm của nhân vật trữ tình. Không chỉ nhận lấy những đau khổ, dằn vặt về mình, chàng trai còn chúc phúc cho cô gái sẽ tìm được tình yêu đích thực: “Cầu em được người tình như tôi đã yêu em”.
Khác với suy nghĩ của bạn đọc, chàng trai không hề có ý trách móc cô gái mà anh còn cầu chúc những điều tốt đẹp đến với cô. Mặc dù không có được tình yêu của “em”, không có được trái tim “em” nhưng nhân vật trữ tình luôn mong “em” sẽ tìm được một người yêu thủy chung, chân thành như “tôi đã yêu em”. Lời nguyện cầu ấy đã thể hiện sự cao thượng, vị tha trong con người của chàng trai. Puskin không vì sự ích kỉ của bản thân mà trở nên nhỏ nhen, thù hận. Đó cũng là cách hành xử văn minh mà tất cả chúng ta cảm thấy ngưỡng mộ, khâm phục và cần phải học tập. Đối với tác giả, yêu là niềm hạnh phúc, dù tình yêu ấy có được đáp lại hay không thì tình yêu luôn mang lại những trải nghiệm ý nghĩa.
Bằng ngôn từ giản dị, trong sáng cùng với việc sử dụng điệp từ “Tôi yêu em”, nhà thơ đã khắc họa nỗi buồn của một tâm hồn rực cháy những tình cảm yêu thương chân thành, nhân hậu. Tình yêu của nhân vật trữ tình đã vượt qua cái tầm thường để hướng đến cái cao cả. Đây cũng là lí do để bài thơ “Tôi yêu em” của Puskin được đánh giá là “viên ngọc vô giá trong kho tàng thi ca Nga”.
Bài làm mẫu 3Tình yêu luôn là đề tài bất diệt với thi ca. Mỗi thi sĩ đều có một cái nhìn riêng, đặc biệt về những cung bậc khi yêu. Chúng ta biết đến Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình” với những vần thơ nồng nàn, cháy bỏng, mãnh liệt. Đối với nền văn học Nga thì Puskin được xem là “mặt trời thi ca Nga” với những áng thơ bất hủ về tình yêu. Bài thơ “Tôi yêu em” là một điệp khúc tình yêu với những cung bậc thương nhớ da diết khi yêu. Một bài thơ tình gieo vào lòng người nhiều thổn thức, nhiều mong nhớ và nhiều nuối tiếc cho câu chuyện tình đơn phương của tác giả.
Có thể nói “Tôi yêu em” là lời giãi bày tình cảm một cách chân thành và mãnh liệt nhất, đó là tiếng nói con tim, tiếng gọi của những rung động tha thiết và sâu sắc nhất.
Bài thơ với câu chữ bình dị, gần gũi mà sâu vào trái tim người đọc những xốn xang và dư âm còn mãi.
Một câu thơ cất lên bình dị, chân thành như chính tấm lòng và trái tim của tác giả dành cho người mình yêu thương. Lời thơ chậm rãi, đều đều như có chút gì đó ngượng ngùng, chưa mang ý nghĩa khẳng định. Những từ ngữ “chừng có thể”, “chưa hẳn” dường như còn vương chút gì đó chưa dứt khoát. Có lẽ bởi tác giả sợ lời tỏ tình của mình suồng sã quá khiến cho người ta sợ. Tuy nhiên dù chưa dứt khoát nhưng cũng đã phần nào bộc lộ được tình yêu say mê đã từ lâu lắm rồi, đó là một quá trình yêu và thương có thời gian chứ không hề bồng bột.
Tuy nhiên đến hai câu thơ sau, giọng thơ đột nhiên thay đổi:
Mặc dù tình cảm trong trái tim “tôi” đã rõ nhưng nhân vật trữ tình lại không muốn làm khó đối phương, không muốn để cho đối phương phải khó xử. Đó cũng chính là một trái tim đầy lí trí. Hai câu thơ đầu và hai câu thơ sau được ngắt ra bởi từ “nhưng” vừa có vẻ vô tình nhưng lại phần nào thể hiện sự dứt khoát hơn hết. Nhân vật “tôi” tự ý thức được bản thân mình, dù có chịu ấm ức cũng chịu “không để em phải bận lòng thêm nữa”. Tuy nhiên lúc này nhân vật trữ tình đang trăn trở và thấy chua xót, không biết rằng tâm trạng của người kia như thế nào. Một trái tim đa sầu đa cảm nhưng là một trái tim biết nghĩ cho người khác. Trái tim ấy thật đáng quý và đáng trân trọng biết bao nhiêu. Cảm xúc ở những câu thơ đầu bị dồn nén, không được thoát ra bên ngoài mà trở nên bức bối hơn.
Ở 4 câu thơ sau bỗng nhiên cảm xúc vỡ òa, tràn ra. Có lẽ cảm xúc trong tình yêu không còn giữ kín, không còn bó buộc trong trái tim chật chội nữa. Đã đến lúc nó bật tung ra. Và cụm từ “tôi yêu em” lại được điệp lại một lần nữa càng khẳng định hơn nữa tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái:
Vẫn là tình yêu ấy nhưng giờ nó được tràn ra, nhân vật “tôi” đã giãi bày thành lời. Rằng tình yêu này “thầm lặng”, “không hi vọng” nhưng đó là tình yêu “chân thành”, “đằm thắm”. Nhịp thơ trở nên nhanh và dồn dập hơn, tình yêu cũng trở nên cồn cào và da diết hơn.
Câu thơ cuối được coi là “điểm nhãn” của cả bài thơ, cũng như là “điểm nhãn” trong trái tim của nhân vật “tôi”. Một cách nói vừa thể hiện sự vị tha khi yêu vừa thể hiện sự thông minh và khéo léo trong cách thổ lộ tình cảm. Ý thơ “cầu em được người tình như tôi đã yêu em” thật sâu sắc. Phải chăng nhân vật trữ tình đang tự khẳng định lại tình yêu của mình dành cho “em” là quá lớn và quá chân thành.
Dù tình yêu “âm thầm” không được đền đáp nhưng nhân vật trữ tình vẫn yêu chân thành và yêu tha thiết. Không đòi hỏi điều gì, không hi vọng bất cứ một điều gì. Một thứ tình yêu cao cả và vĩ đại. Tuy nhiên trong tình yêu vẫn luôn có những cung bậc, lúc dịu dàng, đằm thắm, lúc ghen tuông, lúc hờn dỗi. Đó như những nốt trầm bổng tạo nên một bản hợp xướng tuyệt vời trong tình yêu, hay nói cách khác đó chính là gia vị khi yêu không thể thiếu được.
Puskin với một trái tim sống và yêu hết mình đã viết lên những vần thơ vừa bình dị, gần gũi, vừa đằm thắm mượt mà. Những vần thơ chạm đến trái tim của người đọc một cách dữ dội như vậy. “Tôi yêu em” là một bài thơ tình bất hủ, với đầy đủ cung bậc khi yêu đã khiến người nghe có những cảm nhận thật tinh tế và sâu sắc nhất.
Bài làm mẫu 4Puskin được biết đến là đại thi hào của nước Nga, ông không chỉ là nhà văn nhà thơ mà còn là nhà thi sĩ lừng danh, ông có rất nhiều những sáng tác to lớn và để lại cho văn học Nga những dấu ấn mạnh mẽ trong thời đại, Puskin được người đọc biết đến với tác phẩm Tôi yêu em.
Đây là bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ chính cuộc đời của tác giả đây là những bộc lộ sâu sắc để thể hiện được tình yêu của ông đối với nàng, những giây phút tuyệt đẹp trong cuộc đời đã đang thấm nhuần trong từng lời thơ của ông. Mở đầu bài thơ tác giả viết Tôi yêu em… đây đã là những lời bộc lộ về tình cảm của ông đối với người con gái mà ông ta yêu, những cảm xúc mang đậm giá trị khi tình yêu đó của ông là vĩnh hằng, ngọn lửa trong trái tim ông chưa bao giờ phôi phai khi yêu em, khi có em trong vòng tay anh sẽ luôn coi trọng và đốt thêm những ngọn lửa tình đang rực cháy trong trái tim của mỗi con người:
Những lời bộc lộ của tác giả đối với người tình của mình, mang những cảm giác buồn buồn và đậm tâm trạng, nhưng sự chân thành của tác giả về cuộc tình này vẫn vô cùng mạnh mẽ và đầy cảm xúc khi mỗi chúng ta đều thấy được lời bộc lộ ở đoạn mở đầu, nhưng tiếp theo lại là những cảm xúc như đang tuyệt vọng, khi đang đo đếm ngày tháng đã từng yêu, cụm từ chừng có thể như đang nhắc đến những khoảnh khắc không nói thành lời của tác giả. Ngọn lửa trong tâm hồn của tác giả vẫn đang dạt dào, và vẫn cháy bỏng lên những tình yêu sâu sắc và mạnh mẽ nhất đối với tâm hồn của ông. Nhưng không để cho người mình yêu phải buồn hay có những nỗi suy tư ông đã đành lòng ngậm ngùi chịu đựng những cảm xúc mạnh mẽ trong cuộc đời, và để cho tâm hồn của em không phải vấn vương những suy tư và cảm xúc riêng về những điều này, đây là những khoảnh khắc khiến người đọc hình dung mạnh mẽ nhất về nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Tình yêu của tác giả cũng mãnh liệt từ “tắt” đã diễn tả mạnh mẽ và sâu sắc nhất những cảm xúc đó, những cảm xúc mang đậm giá trị về tình yêu thương và sự quan tâm đối với người mà ông đang thầm thương trộm nhớ, đây là những cảm xúc riêng và mang trong trái tim của tác giả những cảm xúc mạnh mẽ và vô tư nhất về tình yêu của mình. Chính những cung bậc của tác giả đã đang thấm nhuần mạnh mẽ cảm xúc và những nỗi nhớ mong về sự hoài đợi và không để người mình yêu buồn đau vì chuyện gì.
Tình yêu thì vẫn đang nảy nở từ “tắt” đã nhấn mạnh sâu sắc được điều đó, và nó mang những cảm xúc lớn lao khi tình yêu đó không được đáp lại với một tình cảm chân thành và đáng quý nhất. Những cảm xúc dạt dào và mang đậm màu sắc của tác giả đã thể hiện được những cảm xúc to lớn và ngọt ngào trong trái tim của tác giả. Những tình cảm không được bộc lộ ra nó vẫn âm thầm bên trong trái tim của tác giả, những điều đó đã mang đậm những giá trị to lớn và mạnh mẽ khi trái tim của người vẫn đang rung động lên những khoảnh khắc dạt dào và mang đậm ý nghĩa nhất đối với tâm hồn của tác giả về chính mình.
Khi cụm từ tôi yêu em được sử dụng với một tần số lớn trong bài nó cũng đủ để nhấn mạnh tình cảm của tác giả đối với cô gái mà mình yêu. Tác giả vẫn đang yêu trong sự thầm lặng, không hy vọng người đó có thể đáp trả được tình cảm của chính mình, những lúc rụt rè không dám biểu lộ là những lúc trái tim của tác giả yếu mềm nhất, và trong lòng có chút ghen tuông và đậm cảm xúc của một người mang trái tim nồng cháy:
Những cảm xúc dạt dào và đậm giá trị nhất đã được biểu lộ trong tác phẩm với những cung bậc mạnh mẽ và mang những màu sắc hương vị của tình yêu. Có thể nói rằng tình yêu của ông đối với người con gái này là vô cùng mạnh mẽ và chân thành, những tình cảm to lớn và giàu giá trị của cảm xúc nhất được thể hiện qua những lời thơ, khi trái tim còn đang có chút lo sợ, nhưng bên trong nó là một tình yêu mạnh mẽ và to lớn đối với người tình.
Tình cảm chân thành, đằm thắm và tình yêu to lớn đã thúc giục mạnh mẽ cảm xúc thăng hoa của tác giả trong mỗi trang thơ ca, trái tim bao la của tác giả cũng được thể hiện mạnh mẽ ở đây, những tình cảm to lớn mà tác giả dành cho người mình yêu, để lại những cảm xúc thiêng liêng trong lòng mỗi người đọc, bởi nó mang một giá trị to lớn và mạnh mẽ nhất đối với con người, tình cảm đó là sự thiêng liêng vô bờ bến trong tình yêu. Cảm xúc và những nỗi nhớ mong được được dạt dào và thấm đẫm trong trái tim của mỗi con người.
Với những từ ngữ chất phát giản dị nhưng nó đã đủ để lột tả được những lời thầm kín và sâu lặng của tác giả đối với người con gái mà ông yêu, dù tình yêu đó là bên trong tâm hồn, không được bộc lộ ra bên ngoài nhưng nó đủ để cho thấy tình yêu của tác giả thật mạnh mẽ và to lớn đến vô ngần.
Tình cảm mặn nồng và da diết đã được thể hiện một cách sâu sắc, có thể thấy tình yêu đó đang dần biểu lộ những dòng cảm xúc sâu lắng và da diết nhất, trong tâm hồn của mỗi con người, biết bao nhiêu giá trị và ý nghĩa của cuộc sống luôn ngập tràn và da diết trên biết bao nhiêu cảm xúc ngọt ngào, và tình cảm của chính tác giả, biết được những cảm xúc đó tác giả dường như đang ngập tràn và mang đậm biết bao nhiêu giá trị của tình yêu. Nỗi nhớ mong luôn được thể hiện một cách sâu lắng và ngọt ngào nhất, những cảm xúc đó đang dần được mở rộng và nâng lên trên nền không gian của mình những thiên uyển của cuộc đời.
Trái tim đang yêu vẫn đang rung động lên những cảm xúc và tình cảm đó đã dạt dào và sống động lên trong từng trang giấy và ngập tràn cảm xúc, tình yêu sâu đậm và mang màu sắc tươi tắn nó đã đẩy mạnh và xoáy sâu vào trong tâm hồn của tác giả, những cảm xúc của chính mình, những cảm xúc đó đã được thể hiện một cách ngọt ngào và mang màu sắc nhất, chúng ta có thể nhìn thấy được tình cảm yêu thương và sự đằm thắm đang dần biểu lộ trong chính cuộc đời và sự nghiệp của tác giả, cảm xúc đó đã da diết và chân thành nhất. Những giây phút được mở trái tim yêu thương ra để biểu lộ tác giả dường như đang sống những năm tháng hạnh phúc và có giá trị nhất. Tác giả đã thể hiện được cảm xúc của mình, qua những cung bậc nhẹ nhàng nó mang dấu ấn to lớn và có điều cần thiết nhất trong cuộc đời của mỗi người.
Advertisement
Bài thơ đã mang đậm màu sắc yêu thương và tình cảm đó rất chân thành và da diết trong cuộc đời của mỗi con người.
Bài làm mẫu 5Tình yêu là một đề tài hấp dẫn, cuốn hút trong cả văn học Việt Nam và thế giới, là nguồn cảm hứng sáng tạo không bao giờ vơi cạn. Với đề tài này, Puskin, “mặt trời của thi ca” nước Nga đã đóng góp một tiếng nói riêng, một giọng điệu riêng. Bài thơ “Tôi yêu em” của ông gây xúc động cho người đọc bởi giá trị tinh thần, như Bie – lin – xki đã từng nói: “Đây là tình cảm của con người từng trải và ta cũng thấy ở đây lòng nhân ái làm lay động lòng người.” Mở đầu bằng lời ngỏ “Tôi yêu em”, Puskin giãi bày lòng mình với một tình yêu trinh nguyên nồng cháy:
Dịch giả khéo léo lựa chọn nhân xưng “tôi-em”, không quá khách sáo, trang trọng, không quá xô bồ, thân thiết, “tôi yêu em” thể hiện mối quan hệ vừa gần vừa xa, vừa dang dở vẫn nguyên vẹn, thể hiện rõ sự đằm thắm, tha thiết giữa hai nhân vật. Nhân vật trữ tình giãi bày cụ thể tâm trạng, tình cảm của mình qua những chi tiết “ngọn lửa tình, bận lòng, u hoài”, cho thấy một xúc cảm giằng xé, đấu tranh giữa lý trí và tình cảm.
Lý trí nói rằng “không để em bận lòng thêm nữa”, nhưng con tim yêu thì “ chưa hẳn tàn phai”. Bốn câu thơ đầu khiến người đọc cảm nhận được tâm hồn của nhân vật tôi: Say mê và chối bỏ say mê, ngọn lửa tình rực cháy và chấp nhận dập tắt ngọn lửa ấy. Tình yêu cao thượng thôi thúc nhân vật tôi rút lui vì không muốn em phải bận lòng vì không muốn thì em u sầu. Một trái tim vị tha, một tình yêu cao thượng. Người đọc dường như đang cảm thấy một tình yêu tuy sai trái tuy đơn phương nhưng vô cùng cháy bỏng.
Tiếp nối mạch cảm xúc, nhà thơ lại bày tỏ lòng mình: tôi yêu em. Đây không chỉ là điệp khúc tình yêu mà còn được sắp xếp như cơn sóng trào, ngày càng mãnh liệt, ngày càng dồn dập.
Nhân vật tôi trực tiếp giãi bày những cung bậc tình yêu của mình, chấp nhận dập tắt ngọn lửa tình say mê. Vì em, dường như những đau đớn ấy cũng trở nên thanh thản. “Âm thầm, không hy vọng, rụt rè, hậm hực lòng ghen”, nhân vật tôi vẫn không giấu được những xúc cảm bình thường trong trái tim mình: Cũng giận hờn, cũng buồn thương, cũng ghen tuông. Thứ tình cảm rất đời, cũng như bao trái tim đang yêu khác. Nói ra được cảm xúc của mình cũng đau khổ như việc phải từ bỏ em. Nói về nỗi ghen tuông trong tình yêu, Puskin từng viết:
Chính ông cũng phải thừa nhận rằng, ghen tuông giống như nỗi buồn đen tối, làm mụ mẫm đầu óc. Nhưng vượt lên trên tất cả, ông chỉ muốn:
Lẽ thường trong tình yêu là sự ích kỷ, ghen tuông là biểu hiện cao độ của sự ích kỷ đó. Ở đây, nhân vật tôi đã vượt qua thói thường ấy, hướng tới một trái tim trong sáng. Điều này thể hiện qua lời chúc phúc chân thành. Điều quan trọng nhất không phải tình yêu của tôi mà là trái tim em có cảm thấy thoải mái hay không. Lòng nhân ái trong tình yêu đã đem đến cảm xúc vĩ đại.
Có người cho rằng, câu thơ cuối là sự chối bỏ tình yêu, có người lại nghĩ, đó là sự vun đắp. Phải chăng, nhân vật tôi muốn nhắn nhủ với người tình rằng hãy sáng suốt chọn đúng người tìm được trái tim yêu thương chân thành, đằm thắm. Có lẽ đây là lời tỏ tình vừa tế nhị, vừa kiêu hãnh.
Bài thơ khép lại với dòng cảm xúc vừa buồn thương vừa mãnh liệt, thể hiện một tình yêu chân thật, cao quý. Tôi yêu em là một lời nói nhân văn, là tiếng lòng của bao nhiêu đôi trai gái có duyên mà không có phận. Tuy vậy, tình yêu vẫn là món ăn tuyệt vời nhất cho tâm hồn con người.
Phân tích bài thơ Tôi yêu em đầy đủ Bài làm mẫu 1Thơ là tiếng nói của tâm hồn, tiếng nói của cõi lòng, của trái tim. Thơ nói hộ lòng người những điều khó nói, những rung động thầm kín trong xúc cảm, đặc biệt trong tình yêu. Puskin lại được tôn vinh là “mặt trời vĩ đại của thi ca Nga”. Một trong những áng thơ nổi tiếng của ông viết về đề tài tình yêu là bài Tôi yêu em, một trong những bài thơ tình hay nhất.
Nhận xét về màu sắc chung của thơ trữ tình Puskin, nhà mỹ học Bi-lê-lin- xki đã cho rằng, đó chính là “vẻ đẹp nội tâm của con người và lòng nhân ái vuốt ve tâm hồn”. Và Tôi yêu em phải chăng là một bài thơ mang đậm màu sắc ấy?
Bài thơ gồm hai khổ thơ (theo bản dịch tiếng Việt) diễn tả trung thực tâm trạng của nhân vật trữ tình (tôi) trong tình yêu. Nói lên niềm mong mỏi hi vọng người mình yêu được hạnh phúc. Và phải chăng đó là vẻ đẹp cao thượng, thánh thiện nhất.
Mỗi lời tâm sự cũng là lời trái tim muốn nói. Tình yêu này đã nung nấu rất lâu rồi. “Ngọn lửa tình” đã tắt nhưng “chưa hẳn đã tàn phai”, dù cho tình yêu không được em đáp lại.
Bài thơ dựa trên câu chuyện có thật của chính tác giả khi sống ở Xanh Pê-téc-bua. Puskin thường hay lui tới nhà vị chủ tịch viện Hàn lâm nghệ thuật Nga để gặp những người làm nghệ thuật và cũng vì cô con gái chủ nhà – nàng Ô-lê-nhi-a xinh đẹp. Nhưng khi nhà thơ ngỏ lời cầu hôn thì nàng đã từ chối.
Tại sao mở đầu bài thơ, tác giả lại viết: “Tôi yêu em đến nay chừng có thể – Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai”? Có gì đáng nói đâu nếu không có hai câu thơ tiếp theo:
Nếu ở vế trước chữ “nhưng” là một sự phũ phàng, tình yêu tôi vẫn dành cho em dù em không đáp lại tình tôi. Em quá hờ hững, quá vô tình. Đằng sau chữ “nhưng” là cả một sự cao thượng. Theo lẽ thường, khi bị từ chối lời cầu hôn, người ta sẽ không dễ dàng từ bỏ người mình yêu. Người ta vẫn theo đuổi bằng nhiều cách trước khi tuyệt vọng hoàn toàn. Nhưng ở đây Puskin lại “không để em bận lòng thêm nữa”, vì tôi, vì tình yêu của tôi. “Tôi yêu em”, nhưng tôi sẽ không để em buồn lòng, dù thực chất người đang buồn lòng là “tôi”. Vì thế mà tôi không thể để cho tâm hồn ấy phải “gợn bóng u hoài”. Đó là một tình cảm cao thượng, đầy tính vị tha.
Đọc toàn bộ khổ thơ đầu, ta thấy cảm xúc dường như đang bị dồn nén để cho một cảm xúc khác trồi lên. Nhân vật tôi hiện lên với một tấm lòng yêu thương rộng lớn. Có thể thấy lời thơ như những lời tâm sự của tác giả. Tâm sự với người mình yêu, tâm sự với chính mình. Tâm trạng của nhân vật trữ tình có thể nào khác hơn là tâm trạng của chính thi nhân?
Mạch thơ tự sự trữ tình tiếp tục chuyển tiếp sang khổ thơ thứ hai. Cũng là cảm xúc ấy:
Cái tình yêu ban đầu còn rụt rè, thầm yêu trộm nhớ ấy cũng tỏ ra có phần ích kỉ. Nhưng cái ích kỉ thật đáng yêu.
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen
Tình yêu ban đầu đối với con người dân tộc nào cũng vậy, cũng có hậm hực cũng có ghen tuông, cũng rụt rè, e lệ, nhưng ấy chính là những phẩm chất mãnh liệt thiết tha và cao thượng của tình yêu.
Tôi yêu em âm thầm không hi vọng.
Lời thú nhận của thi nhân cũng chính là cõi lòng của mọi con người trong tình yêu. Nhưng đó là tình yêu đẹp, tình yêu biết đặt người mình yêu lên trên những khát khao mãnh liệt của chính bản thân mình.
Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm.
Đây lại là lời thú nhận nữa, trực tiếp và rõ ràng. Lời nói của chính trái tim đang run rẩy vì yêu, một trái tim chân thành nhất. Đó là một lời giãi bày bộc bạch tâm trạng của “tôi”, cũng là lời tâm sự chân thành để người mình yêu hiểu được trái tim mình. Nhưng cũng như câu thơ trên, ở đây, tình cảm ấy lại một lần nữa nhường chỗ cho sự cao cả: Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.
Sự cao thượng, thánh thiện của tình yêu đến đây dường như chợt bừng sáng. Tình yêu đến đây không còn sự nhỏ nhen, ích kỉ. Tình yêu ấy trở nên cao đẹp biết nhường nào: hi sinh tình yêu của mình để cho người mình yêu hạnh phúc.
Về cách hiểu câu thơ này, có ý kiến cho rằng: đó là lời thách thức kiêu bạc. Nhân vật tôi muốn nói với em rằng liệu có ai yêu em hơn tôi, em có được người tình nào xứng đáng hơn tôi? Trong muôn nẻo đường của tình yêu, cách hiểu này không phải không hợp lí. Nhưng nêu lí giải câu thơ như vậy thì Tôi yêu em không thể nào được xem là một trong những bài thơ tình hay nhất.
Cho nên, có thể nói câu thơ cuối chính là điểm sáng của bài thơ. Nó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn con người và tấm lòng nhân ái của con người trong tình yêu. Một tình yêu chân thành, đằm thắm sẽ nâng đỡ thanh lọc tâm hồn con người. Đó cũng chính là vẻ đẹp cao thượng trong tình yêu của tác giả.
Có người nói rằng: sự chân thành là chìa khóa mở cửa vào trái tim người khác. Và điều đó đúng trong trường hợp của Puskin. Tôi yêu em đã đi vào lòng người đọc như những bản tình ca hay nhất cho mọi thời đại. Và Puskin mãi là “mùa xuân của văn học Nga”, là “mặt trời của thi ca Nga”.
…………..
Văn Mẫu Lớp 9: Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy (Sơ Đồ Tư Duy) 3 Dàn Ý &Amp; 22 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Duy và bài Ánh trăng, nêu khái quát về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm
Trích dẫn nhận định của Nguyễn Bùi Vợi.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
– Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ
Bài thơ mượn đề tài thiên nhiên để nói tới suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ và con người, cuộc đời
2. Phân tích bài thơ và chứng minh nhận định: Bài thơ viết về hình ảnh ánh trăng gắn với cuộc đời
– Ánh trăng trở thành hình ảnh trung tâm của bài thơ
Vầng trăng gắn bó sâu đậm với con người từ thời thơ ấu, trải qua khó khăn gian khổ trong chiến đấu
Cấu trúc lặp và biện pháp liệt kê “đồng, sông, bể, rừng” theo trình tự không gian hẹp tới rộng, từ quê hương tới đất nước đã trở thành nhân chứng, thức tỉnh con người
→ Trải qua khổ cực, cuộc sống bình dị, hồn nhiên, tình cảm của con người và vầng trăng bền chặt “nghĩa tình”
– Trăng là người bạn đồng hành, đồng cam cộng khổ, trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ tình nghĩa
– Vầng trăng được nhân hóa trở thành “tri kỉ” có tâm trạng, cảm xúc, sự thủy chung sâu sắc
“Vầng trăng thành tri kỉ”
– Sự thay đổi trong mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng: Tác giả tạo ra sự đối lập giữa con người quá khứ và con người hiện tại, giữa sự thiếu thốn trong quá khứ với sự “hiện đại” đầy đủ của thực tại
– Từ đó, diễn tả sự thay đổi về mặt tình cảm của con người: con người lãng quên vầng trăng, quên quá khứ, nên vầng trăng tình nghĩa giờ chỉ “như người dưng qua đường”. Con người trong sự đủ đầy vật chất và tiện nghi dễ dàng quên đi gian khổ, đau thương từ quá khứ
– Khổ thơ thứ 4 tạo nên bước ngoặt làm chuyển hướng mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình
Hoàn cảnh được đẩy đến bước ngoặt khi tình huống bất ngờ xảy đến:
Người và trăng đối mặt thì tình xưa nghĩa cũ dâng lên, dường như “vầng trăng tròn vành vạnh” vẫn luôn chung thủy đứng chờ
Trăng xuất hiện đột ngột có sức rung động mạnh mẽ thức tỉnh lương tâm con người
→ khổ thơ quan trọng tạo nên tính bước ngoặt cho bài thơ cũng là hồi chuông làm thức tỉnh tình nghĩa, lương tâm của con người
– Hình tượng vầng trăng và dòng cảm xúc của tác giả: Sự xúc động mãnh liệt của nhân vật trữ tình “ ngửa mặt lên nhìn mặt/ có cái gì rưng rưng/ như là đồng là bể/ như là sông là rừng”
– Chủ thể trữ tình lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế im lặng cũng chính là quá khứ đối diện với hiện tại, sự thủy chung tình nghĩa đối diện với sự bạc bẽo vô tình
Đối diện với vầng trăng tình nghĩa, con người dường như thức tình được sự thiện lương: nhìn sâu vào bản thân để thấy lỗi lầm, sự thay đổi của mình
Cuộc gặp gỡ không lời giúp con người tự soi chiếu vào chính mình
– Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm sâu sắc mang tính triết lý của tác giả
“trăng cứ tròn vành vạnh” biểu trưng cho sự chung thủy, nghĩa tình, trọn vẹn của thiên nhiên và quá khứ dù con người có thay đổi, vô tình
Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc” không trách cứ, oán hờn thể hiện sự bao dung, độ lượng của con người nghĩa tình
Sự im lặng khiến nhân vật trữ tình “giật mình” đây là sự thức tỉnh lương tâm rất đáng trân trọng
Câu thơ cuối cùng là sự ân hận, nỗi niềm tâm sự trở nên ám ảnh, day dứt
→ Sự cảnh tỉnh, nhắc nhở con người nhớ về quá khứ, về những điều ân tình thủy chung
III. Kết bài
Nguyễn Duy khai thác hình tượng nghệ thuật ánh trăng hết sức độc đáo. Ánh trăng mang lại câu chuyện về lẽ sống ân tình, chung thủy
Bài thơ Ánh trăng cũng gợi lên trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm về cách sống, cách làm người, lối sống ân tình ở đời qua những câu thơ thấm thía, sâu nặng
…..
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Thế hệ này từng trải qua bao thử thách, gian khổ của chiến tranh, chứng kiến bao hi sinh lớn lao của đồng đội nói riêng và nhân dân ta nói chung trong cuộc chiến. Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam 1975, là để giãi bày những cảm xúc và suy tư của mình trước thực tế có người còn ghi nhớ những mất mát hi sinh năm xưa, có người lại lãng quên quá khứ.
Cái hay của bài thơ này là câu chuyện đời thường được kể bằng những lời thơ giản dị, mộc mạc mà chứa đựng tình cảm, tư tưởng sâu xa. Câu chuyện về mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng diễn ra như sau: Hồi nhỏ sống ở làng quê ven biển và hồi chiến tranh sống ở rừng thì vầng trăng là tri kỉ, gần gũi, thân thiết:
Hồi nhỏ là hồi còn bé thơ, còn sống với làng quê với trăng sáng. Lúc ấy con người hồn nhiên, chưa toan tính điều gì. Trăng là một phần của thiên nhiên gắn kết với cuộc sống con người. Trang đến trang đi mang theo nhiều điều mơ ước, chứa đựng biết bao tâm tư tình cảm. Trăng với người như hình với bóng, không sao xa rời.
Những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh, “vầng trăng thành tri kỉ”, lúc nào cũng kề cận, soi bước hành quân, soi trong giấc ngủ. Nghệ thuật nhân hóa đặc sắc, trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính, của nhà thơ.
Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi,đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê…
Trăng đã cùng con người vượt qua biết bao gian nan, vào sinh ra tử. Bởi thế, người lính cảm động biết bao, tự hứa với lòng “không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” ấy. Đến khi chiến tranh kết thúc, được về sống ở thành phố, cuộc sống thay đổi khiến con người cũng thay đổi:
Cuộc sống tiện nghi, đầy đủ, khác xa với những tháng ngày trước đó đã khiến con người quên hẳn người tri kỉ, người bạn chân thành năm xưa. Giờ đây, vầng trăng đi qua ngõ lạnh lùng và xa lạ như người dưng qua đường. Vầng trăng vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết.
Sự cố mất điện khôi phục lại biết bao kỉ niệm, khiến con người đối diện lại với hoàn cảnh tương tự của năm xưa, vầng trăng sáng xuất hiện đánh thức kí ức và khiến con người thức tỉnh, nhận ra lỗi lầm của mình:
Con người đối diện với vầng trăng trong một tình huống bất ngờ. Chính cái bất ngờ ấy đưa con người sống thực với chính mình, sống thực với nguồn cội sự sống. Giọt nước mắt rưng rưng trên khóe mắt vừa là sự cảm động sau xa vừa là niềm tiếc hận bẽ bàng, tận cùng của đau xót:
‘‘Ngửa mặt lên nhìn mặt” có nghĩa là nhìn lại mặt mình và thấy mình có lỗi, mình đã thành con người khác, con người đã quên đi những năm tháng gian lao mà tình nghĩa, quên đi những mất mát, hi sinh,… Những giọt nước mắt cho thấy sự thức tỉnh và hối lỗi của nhà thơ. Thực ra, có thể hiểu là “lòng rưng rưng “chứ không phải rưng rưng”, những giọt nước mắt trong sâu thẳm lòng người có sức lay động nhiều hơn những giọt nước mắt trên bờ mi.
Và nhà thơ đã “giật mình”dù trăng phăng phắc”. Người bạn tri kỉ ấy không nói, mà vẻ đẹp của người tri kỉ đã làm nhà thơ bừng tỉnh ngộ. Người ta có thể thấy qua “ trăng” những gương mặt người tri âm xưa. Với người này, đó có thể là hình bóng của thời bé dại. Với người khác, đó có thể là hình dáng của tháng năm êm đềm hạnh phúc đã qua. Riêng với nhà thơ, đó chính là gương mặt đồng đội trong những tháng năm đạn bom khốc liệt.
Nhà thơ “giật mình” trước sự suy thoái về đạo đức, về lối sống của xã hội, trong đó có bản thân mình: có đèn điện, quên vầng trăng; có hoà bình, quên quá khứ chiến tranh. Vì vậy, lời tự thú chân tình của tác giả chính là lời nhắc nhở về thái độ, tình cảm đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa và đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, thân thương.
Cùng với nhạc phẩm “Bài ca không quên” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn, thi phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy gợi nhắc lẽ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung – truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chắc chắn rằng, mỗi người chúng ta đều có những lí do rất riêng để lí giải vì sao mình lãng quên một điều thiêng liêng nào đó; xin hãy thành tâm suy nghĩ và biết “ giật thức tỉnh khi đọc bài thơ này. Đó chính là giá trị nhận thức mà văn học mang lại.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân tình thủy chung cùng quá khứ.
Trăng từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở nhưng không bao giờ cũ trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam. Đến với trăng,khó ai có thể kìm lòng trước vẻ đẹp của nó. Nếu đến với trăng của các nhà thơ lớn của dân tộc như Thế Lữ có ” Nhớ rừng”; ”Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu hay ”Rằm tháng giêng, Cảnh khuya, Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh…ta đều thấy xuất hiện trước mắt một bức tranh đêm trăng đầy thơ mộng, bí ẩn và huyền ảo. Thế nhưng, đến với ”Ánh Trăng” của Nguyễn Duy, ta lại bắt gặp một tư tưởng hoàn toàn mới lạ. Trăng ở đây là quá khứ thuỷ chung, bất diệt; là người bạn nghĩa tình, tri kỉ; là bài học thấm đẫm giá trị nhân văn sâu sắc.
Từ lâu, trăng và người đã trở thành những đôi bạn tri kỉ, thân thiết:”Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần” thì đến ”Ánh trăng” quy luật ấy vẫn không hề thay đổi,trăng và người, người và trăng, họ vẫn vậy, vẫn gắn bó không rời. Hai khổ thơ đầu, tác giả đã gợi lại những kỉ niệm, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ:
Bốn câu thơ đầu gắn với giọng kể thủ thỉ, tâm tình ”hồi nhỏ”, ”hồi chiến tranh” đã đưa người đọc trở về quá khứ đã rất xa, một quá khứ đầy ắp những kỉ niệm, mở ra một khoảng không gian bao la, rộng lớn. Cái không gian ấy là ”đồng”, là ”sông”, là ”bể”, là một cuộc sống tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng con người được gắn bó, gần gũi và hoà hợp với thiên nhiên. Điệp từ ”với” như gắn kết ý thơ nhưng cũng là gắn kết con người với thiên nhiên, với vũ trụ, với vầng trăng tình nghĩa. Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ đã cho người đọc chúng ta thấy được một tuổi thơ hết sức đẹp đẽ, đó là những ngày tháng hạnh phúc và tươi đẹp nhất, được nô đùa dưới cánh đồng bát ngát, ngắm trăng trên bãi cỏ trước thềm, được nghe bà kể chuyện cổ tích dưới ánh trăng đêm. Những kí ức tuổi thơ thật đẹp làm sao! Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có một tuổi thơ gắn liền với ông trăng sáng tỏ:
Rồi đến lúc chiến tranh, ánh trăng lại cùng người lính trải qua biết bao những năm tháng gian khổ của đất nước, để vượt lên mọi khó khăn, mọi sự tàn phá của quân thù:
Ở đây, trăng và người vẫn là hai người bạn gắn bó bên nhau không rời ” thành tri kỉ”. Cái ”tri kỉ” ấy cũng giống như: ”Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” của Chính Hữu. Nó đều là sự san sẻ, cảm thông và thấu hiểu nhau sâu sắc. Trăng là người bạn để chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những nỗi đau thương, mất mát của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu, chan chứa yêu thương. Chính vì vậy mà, những ngày tháng tuổi thơ, những năm tháng kháng chiến đã trở thành kí ức chan hoà, tình nghĩa với nhân vật trữ tình.
Với phép liên tưởng đầy nghệ thuật ”trần trụi với thiên nhiên” cùng lối so sánh độc đáo ”hồn nhiên như cây cỏ” đã cho người đọc chúng ta sự ấn tượng về ánh trăng trong quá khứ. Trăng và con người sống chân thành với nhau không chút giả tạo, dối trá. Vầng trăng trong sáng, vô tư như tuổi thơ, thật thà, chân chất như lòng nhiệt huyết sục sôi của người lính trẻ. Vì vậy mà, nhân vật trữ tình đã tự hứa với lòng mình:
Giong thơ tưởng như đều đặn, thế nhưng chỉ với một từ ”ngỡ” như báo trước sự chuyển biến trong câu chuyện của nhà thơ. Cái tư ”ngỡ” ấy thể hiện sự tưởng tượng, là một khẳng định chắc nịch. Thế nhưng, cái từ ”ngỡ” ấy cũng chính là một bước ngoặt trong tâm trạng, thái độ của nhà thơ.
Thế rồi, chiến tranh qua đi, đất nước ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được cải thiện. Và như một lẽ thường tình, hoàn cảnh sống thay đổi, lòng người cũng dễ dàng đổi thay. Khổ thơ tiếp theo đã đưa người đọc trở về hiện tại với những biến đổi trong mối quan hệ giữa nhân vật trữ tình với vầng trăng xưa kia:
Từ một cuộc sống chan hoà với thiên nhiên, nay cuộc sống của con người đã thu hẹp hơn. Không gian núi rừng hoang vu, rộng lớn đã thay bằng không gian phố phường hiện đại, hào nhoáng. Và hình ảnh vầng trăng- người bạn luôn kề vai sát cánh bên con người cũng đã bị thu hẹp lại. Không có con người bên cạnh, nó chỉ biết lủi thủi đi qua con ngõ nhỏ tối tăm, mù mịt. Tầm quan trọng của trăng cũng không còn như xưa. Ngày ngày, trăng vẫn hiện hữu trong đời sống con người, vẫn bên con người, đồng hành cùng con người dù có ở nơi đâu, chốn nào, mặc mọi thời gian, không gian, mặc mọi khó khăn, nhọc nhằn. Trăng vẫn vậy, vẫn tròn đầy,thuỷ chung, chẳng hề thay đổi nhưng con người thì đã đổi thay. Cái bạc bẽo, vô tình đến với người ta một cách từ từ, kín đáo, khó nhận ra.Từ” vầng trăng tri kỉ”, ”vầng trăng tình nghĩa ”bỗng chốc trở thành ”người dưng qua đường” lúc nào không hay. Chỉ một hình ảnh so sánh” vầng trăng” với ” người dưng qua đường” cũng đủ để thấy được thái độ thờ ơ, vô tâm của con người với người bạn của mình năm xưa. Một từ ”người dưng” thôi nhưng nghe sao mà đau lòng đến thế!
Thế nhưng ”sông có khúc, người có lúc” đâu phải cuộc đời con người lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Phải có những biến động, những bất ngờ đó mới chính là cuộc sống. Và ở đây cũng vậy, ta sẽ bắt gặp một tình huống bất ngờ xảy ra làm thay đổi cảm xúc của nhân vật trữ tình:
Trong khoảnh khắc bất ngờ từ bóng tối bước ra ngoài ánh sáng ấy, nhân vật trữ tình không khỏi bàng hoàng, ngỡ ngàng khi nhận ra ánh trăng vẫn tròn, vẫn đẹp đẽ, đầy đặn, vẹn nguyên như xưa. Chính cái khoảnh khắc ấy đã tạo nên một bước ngoặt cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Trăng xưa bỗng chốc quay trở lại với nhân vật trữ tình tạo cho anh một cảm xúc mãnh liệt như được trở về quá khứ, bao kỉ niệm xưa bỗng chốc ùa về:
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế im lặng, có phần thành kính: ”ngửa mặt lên nhìn mặt”. Nếu cái đối diện của Hồ Chí Minh là sự say đắm trước vẻ đẹp của đêm trăng, là một khát khao mãnh liệt được chạm tới trăng, được hoà mình vào trăng,vào thiên nhiên:
Thì ở Nguyễn Duy, cái đối diện ấy là đối diện với quá khứ, với sự ăn năn, day dứt với người bạn tri kỉ của mình năm xưa. Lúc này, không chỉ có người đối diện với trăng mà còn là quá khứ với hiện tại, thuỷ chung với vô tình, bạc bẽo. Nhìn trăng,nhân vật trữ tình cũng như nhìn thấy chính mình trong quá khứ của ”hồi nhỏ”, ”hồi chiến tranh”. Và rồi, nhân vật trữ tình cũng nhận ra giá trị cũng như vẻ đẹp vầng trăng- người bạn năm nào của mình:
Đằng sau cánh cửa, vầng trăng xuất hiện ”tròn vành vạnh” không chút thay đổi. Trăng lặng lẽ nhưng rất nhân hậu, bao dung, không oán hờn, không trách móc người bạn đã từng quay lưng với mình. Thế nhưng, cũng chính cái im lặng nghiêm khắc, cái sự cao thượng ấy lại khiến cho bản thân con người phải giật mình thức tỉnh. Cái giật mình của lương tâm con người thật đáng trân trọng. Nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở, tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn, tìm lại cái đẹp trong tâm hồn. ”Giật mình”để không chìm vào lãng quên, để không đánh mất quá khứ,đánh mất người bạn tốt của mình. Con người giật mình trước ánh trăng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, lời sám hối, ăn năn đầy day dứt, cũng giống như câu thơ cuối bài thơ ”Ông đồ”: ”Hồn ở đâu bây giờ?”
Nhắc đến thơ Nguyễn Duy, có người nhận xét: ”Thơ Nguyễn Duy sâu lắng, tha thiết cái hồn, cái vía của dân ca, ca dao Việt Nam. Những bài thơ của ông không cố gắng tìm những hình thức mới mẻ mà đi sâu vào cái nghĩa, cái tình muôn đời của con người Việt Nam. Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Duy cũng không bóng bẩy mà gần gũi, dân dã, đôi khi còn hơi” bụi” phù hợp với ngôn ngữ thường nhật”. Qủa đúng như vậy! Chỉ qua bài ” ánh trăng” ta cũng đủ để thấy được tài hoa trong nghệ thuật viết thơ của Nguyễn Duy. Điều đặc biệt, cả bài thơ ”ánh trăng” chỉ có duy nhất một dấu chấm khiến ta liên tưởng dòng hồi tưởng của Nguyễn Duy như một dòng chảy xiết, nó cứ triền miên mãi không nguôi. Hơn nữa, bài thơ còn gây xúc động bởi cách diễn đạt bình dị như lời tâm sự, thủ thỉ, lời nhắc nhở chân tình, giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, tứ thơ bất ngờ mới lạ. Qua đó, Nguyễn Duy cũng muốn gửi gắm tới mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống ngàn đời của dân tộc” ân tình, thuỷ chung”; ”uống nước nhớ nguồn”; hãy sống trước sau như một, đừng thay lòng đổi dạ và quên đi cội nguồn của mình.
Từ một câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm của con người đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà hào hùng, nghĩa tình với thiên nhiên, đất nước bình dị. ”Ánh trăng” có ý nghĩa sâu sắc, là lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho người lính chống Mĩ mà nó còn ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời – trong đó có chúng ta.
“Văn chương chân chính dù sáng tác ở thời đại nào cũng góp phần gợi mở, định hướng giá trị sống cho con người hiện tại.” Quả thật vậy, mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình những bài học nhân sinh sâu sắc và tác phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy cũng là một tác phẩm văn học chân chính khi gửi gắm tới bạn đọc bài học có giá trị muôn thời – bài học về lối sống ân nghĩa, thủy chung.
Tác phẩm “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 khi đất nước đã giải phóng được khoảng ba năm. Bước ra khỏi cuộc sống chiến đấu gian khổ đề sống những ngày tháng hòa bình, độc lập, con người ta thường dễ dàng lãng quên đi những quá khứ gian lao mà tình nghĩa của một thời. Bởi vậy, để nhắc nhở chính mình cũng như mọi người, Nguyễn Duy đã sáng tác nên bài thơ này,
Mở đầu tác phẩm, tác giả đưa người đọc trở về sống trong những ngày tháng quá khứ với những kỷ niệm khó phai:
Sự xuất hiện của những hình ảnh “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng” gợi cho ta liên tưởng đến khoảng không gian bao la, khoáng đạt. Không gian ấy cứ mỗi lúc được mở rộng hơn trước mắt chúng ta. Kèm theo đó là sự lớn khôn, trưởng thành của nhân vật trữ tình. Mới ngày nào chỉ là một đứa trẻ hồn nhiên nô đùa trên đồng ruộng sông nước quê hương vậy mà giờ đã trở thành người lính trường thành xông pha trận mạc gian khổ. Gắn bó thân thiết cùng với người lính, “vầng trăng trở thành tri kỷ”, luôn đồng hành, chia ngọt sẻ bùi cùng người lính trong suốt những đêm dài chiến dịch. Bởi vậy mà người lính năm xưa đã từng khẳng định:
“Ngỡ” có nghĩa là nghĩ, là tin, là tưởng. Nói ra điều này chứng tỏ người lính luôn tin tưởng rằng tình cảm gắn bó giữa mình và trăng sẽ mãi mãi bền chặt, không thể tách rời. tuy nhiên ngỡ không bao giờ quên có nghĩa là đã có lúc trót quên. Câu thơ mang chút ngậm ngùi, xót xa bởi những tình cảm gắn bó tưởng chừng không bao giờ thay đổi vậy mà giờ đã đổi thay. Dòng hồi tưởng về quá khứ khép lại nhưng cũng lại mở ra một bước ngoặt mới, tạo bước đệm để thể hiện được tư tưởng bài thơ.
Chiến tranh kết thúc, người lính rời xa núi rừng gian khổ về với cuộc sống phố phường hiện đại, nơi có “ánh điện”, “cửa gương” xa hoa, hào nhoáng. Cuộc sống ấy hoàn toàn đối lập với cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn trước đây của người lính. Nhưng sự thay đổi về hoàn cảnh sống ấy lại tới một sự đổi thay khác – sự đổi thay trong lòng người:
“Người dưng” là người xa lạ không quen biết và đau đớn hơn là người dưng ấy lại đã từng là tri kỷ một thời. Thế mới biết sức mạnh cuộc sống vật chất ghê gớm đến mức độ nào. Nó có thể làm thay đổi cả lương tâm con người. Quên đi trăng đồng nghĩa với việc người lính đã quên đi quá khứ gian lao mà nghĩa tình, quên đi mất mát hi sinh của dân tộc, quên đi chính bản thân mình với những lý tưởng cao đẹp của một thời tuổi trẻ. Thế nhưng, một tình huống đã xảy ra:
Từ láy “đột ngột” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh thái độ ngạc nhiên, ngỡ ngàng của người lính khi gặp lại vầng trăng tròn vành vạnh trên bầu trời thành phố. Có thái độ ấy còn bởi vì bấy lâu nay người lính đã quên trăng, coi trăng là xa lạ nhưng vầng trăng vẫn hiện diện, vẫn thủy chung với con người một cách vẹn nguyên như thuở còn gian khó. Trong giây phút gặp lại “cố nhân” ấy, người lính có hành động “ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tác giả không viết “ngửa mặt lên nhìn trăng” bởi lẽ ông đã thực sự coi trăng là một con người trong cuộc hội ngộ không hẹn trước. Chính trong lúc ấy, nhà thơ lại thấy “rung rung” bao nỗi niềm xúc cảm, muốn nói mà chẳng thể cất thành lời. Một lần nữa , các hình ảnh “đồng”, “sông”, “rừng”, “bể” lại một lần nữa xuất hiện mở ra những trang ký ức quá khứ nghĩa tình năm xưa. Trăng giờ đây hiện lên là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, đất nước; cho một thời quá khứ nghĩa tình; cho một thời tuổi trẻ với bao lí tưởng sống tốt đẹp.
Đoạn thơ cuối kết tinh những suy ngẫm của người lính về vầng trăng:
Cấu trúc “cứ…kể chi…” gợi ra hình ảnh người và trăng trong trạng thái đối lập tương phản” trăng mãi thủy chung, nguyên vẹn dù con người có bội bạc, lãng quên. Nghệ thuật nhân hóa góp phần nhấn mạnh vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước. Trong cuộc gặp gỡ, trăng không một lời trách mắng mà chỉ “im phăng phắc”. Phép nhân hóa khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của vị quan tòa tuy bao dung độ lượng nhưng vô cùng nghiêm khắc khiến con người phải giật mình. Cái “giật mình” ở đây là cái giật mình đầy ý nghĩa. Người lính “giật mình” là bởi đã nhận ra được lỗi lầm của bản thân, những vô tình, sai phạm đáng trách. “Giật mình” còn do sự ăn năn, hối lỗi, xấu hổ trước vầng trăng tình nghĩa vẫn vẹn nguyên, tự thấy bản thân cần phải thay đổi cách sống. Có được những giây phút như vậy, con người sẽ sống trong sáng hơn, lương thiện hơn, tốt đẹp hơn. Bài thơ đi dần về những triết lí sâu sắc của cuộc đời. Nó là lời nhắc nhở ta về một đạo lí sống từ ngàn xưa của dân tộc ta – lối sống ân nghĩa, thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Ta không được phép quên đi những mất mát hi sinh của những người đi trước, những người đã hi sinh mồ hôi và xương máu cho chúng ta ngày nay được hưởng một cuộc sống bình yên, độc lập. Bởi thế, mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ phải biết sống có trách nhiệm, sống sao cho xứng đáng với những gì mình được hưởng.
Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của mỗi khổ khiến dòng cảm xúc liền mạch tạo cho bài thơ dáng dấp như một câu chuyện kể theo trình tự thời gian, kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Tác giả xây dựng được hình tượng vầng trăng giàu ý nghĩa biểu tượng, từ đó giúp nhà thơ truyền tải những thông điệp sâu sắc đến bạn đọc. Bài thơ không chỉ là câu chuyện của riêng tác giả mà là cả với những thế hệ đã từng đi qua chiến tranh, những ngày tháng gian lao mà nghĩa tình.
Đi qua ngày tháng bom rơi đạn lửa, con người ta sống trong thời bình bởi vậy mà dễ dàng quên đi một thời đã qua. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có giá trị muôn thời là bởi vậy. Nó đã định hướng một lối sống tình nghĩa, thủy chung không chỉ với thế hệ khi ấy mà cả hiện tại và mai sau.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nhận định “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, nhận định đó trở nên đúng đắn và xác thực hơn bao giờ hết. Qua mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt, ta cảm nhận được một ngòi bút sâu sắc, một trái tim tinh tế rung động, trước những đổi thay nhỏ bé nhất, và cả một khát khao ước vọng truyền cho mọi người lẽ sống, cách sống trọn vẹn, tình nghĩa.
Nguyễn Duy sinh năm 1948, ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở day dứt, suy tư khôn ngôi. Hãy lật đến Anh trăng đầy chất triết lí, tìm về Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhẹ nhàng, tình cảm nhóm lại tình yêu gia đình với Hơi ấm ổ rơm,… ta sẽ cảm nhận rõ nhất những trăn trở, day dứt, suy tư say sưa ấy trong suốt những tác phẩm của ông.
Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy, lung linh rực rỡ một “ánh trăng” tròn đầy. Ánh trăng ấy là lời thức tỉnh nhẹ nhàng mà hết sức sâu sắc về triết lí nhân sinh, lẽ sống thủy chung, tình nghĩa và những trăn trở suy nghĩ trước cuộc sống hiện đại đầy cám dỗ, đầy lãng quên và vô tình.
Hai khổ thơ đầu tiên gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Bốn câu thơ nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ, tâm tình, kể về một quãng thời gian của tuổi thơ, tuổi trẻ, nhất là quãng thời gian chiến tranh gian khổ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị: “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh”. Câu thơ mở ra một không gian bao la, mênh mông sông nước, khoảng trời ấy nuôi lớn cả một tâm hồn tuổi thơ với bao khát vọng, khoảng rộng ấy được mở ra rồi thu lại khăng khít, gắn bó với quá khứ biết bao tình nghĩa. Điệp từ “với” được nhắc lại ba lần, nhấn mạnh sự thân thiết, gần gũi giữa con người với thiên nhiên:
Cuộc sống “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” tuy khó khăn, vất vả mà chan hòa với thiên nhiên. Cuộc sống ấy bình dị, vô tư và mênh mông hoài bão như thiên nhiên, như cánh rừng mặt bể. Chợt nhận ra, ta có một người bạn hiền hòa, gắn bó, “tri kỉ” – vầng trăng tròn đầy, hiền dịu. vẻ đẹp của trăng xoa dịu những vết thương do chiến tranh gây ra, xoa dịu những mỏi mệt, buồn đau của cuộc sống ấy; trăng vỗ về cho con người bằng những sẻ chia lặng im, bằng những đêm sát cánh bên nhau “đầu súng trăng treo”. Trăng theo ta trên mọi bước đường đi, là người bạn đồng hành tin cậy nhất. Vì lẽ ấy, trăng chính là hiện thân của quá khứ, của kí ức chan hòa tình nghĩa:
Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa Vầng trăng đã được nhân hóa cao độ để trở thành người bạn tinh thần của nhà thơ, một người bạn tri âm tri kỉ tưởng chừng sẽ không bao giờ quên được. Thế nhưng, giữa dòng hồi tưởng tươi đẹp và bình yên, tác giả chợt bất ngờ có những băn khoăn, vướng bận, mờ hồ, báo hiệu cho sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện. Từ “ngỡ” như điểm tiếp nối tinh tế giữa hai khổ thơ, làm bài thơ giữ được nét uyển chuyển trong cả nội dung và ngôn từ.
Khép lại nhẹ nhàng đẹp như mơ trong quá khứ ngòi bút tác giả đưa ta đến với hiện tại, với những đổi thay, xa cách trong lòng người. Chiến tranh qua đi, người lính trở về guồng quay xô bồ và náo nhiệt của cuộc sống. Tác giả nhận ra một quy luật đáng buồn của cuộc sống: khi được sống trong nhung lụa ấm êm, con người ta dễ quay lưng lại với quá khứ vất vả, nghèo nàn, dù đó có là một quá khứ mơ mộng, đẹp đẽ và đáng quý. Quy luật ấy đi từ sự lãng quên, đổi thay quá nhanh của con người:
“ánh điện, cửa gương” là cách nói hoán dụ cho cuộc sống tiện nghi hiện đại, xa rời thiên nhiên. Từ đổi thay trong hoàn cảnh sống, lòng người cũng dần đổi thay, khó nhận ra, mà hay là đã nhận ra nhưng cố tình quên đi. Vầng trăng từ chỗ là người bạn thân thiết gắn bó trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng thì một mực thủy chung tình nghĩa “đi qua ngõ” như đợi người bạn cũ nhận ra, thế nhưng người bạn cũ ngày xưa nay đã quen với ánh sáng của đèn điện vàng bọt giả tạo, giam mình trong bốn bức tường bê tông gạch đá chật hẹp tù túng mà tưởng cuộc sống đã sung sướng hơn xưa. Người ta đã để cho xi măng láng trơn tuột đi những rung động, xúc cảm tinh tế của trái tim, và trát kín cả những khe sáng huyền diệu từ quá khứ rọi về. Sống cuộc sống như thế, phải chăng ta đang đánh đổi cái giàu có trong tâm hồn lấy những tiện nghi hiện đại phù phiếm xa hoa, khi mà hạnh phúc đích thực luôn là một trái tim tràn đầy tình yêu thương!
Tình huống tưởng như không có gì mới mẻ, lạ lẫm, nhất là những năm đầu giải phóng như thời điểm sáng tác bài thơ – năm 1978, nhưng đặt vào hoàn cảnh tác giả, nó làm nổi bật lên sự đối lập tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Các từ ngữ “thình lình”, “vội”, “bật tung” tạo nhịp thơ nhanh, mạnh; để rồi tất cả như sững lại, lặng đi bởi một vầng trăng tròn” “đột ngột” và lung linh. Chính khoảnh khắc ấy đã làm nổi bật lên ý nghĩa tuyệt đẹp của toàn bài: con người vội vã, gấp gáp với cuộc sống hiện đại khi nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống thì thật bàng hoàng, sững sờ. Đã có “ánh điện” sáng trưng, người ta đâu cần ánh trăng huyền diệu lờ mờ nữa, chỉ đến khi thứ ánh sáng nhân tạo kia mất đi, người ta mới nhận ra người bạn cũ từng nguyện mãi mãi không quên và sững người trước người bạn trăng tròn đầy, vẹn nguyên, luôn chung thủy đợi chờ. Khoảnh khắc người và trăng mặt đối mặt thì tình xưa nghĩa cũ dâng lên đến tràn đầy. Cuộc hội ngộ bất ngờ tạo rung động mạnh mẽ và thức tỉnh lương tâm con người; cái “đột ngột” không phải ở trăng, mà ở chính tâm trạng tác giả – tâm trạng thảng thốt, ngỡ ngàng của con người trước sự đổi thay của lòng mình và Sự vẹn tròn của trăng, để từ đó đi đến những day dứt, suy tư.
Nếu như khổ thơ thứ tư đẩy tình huống thơ đến cao trào thì khổ thơ thứ năm lại “rưng rưng” trong sự xúc động mãnh liệt của nhà thơ.
Nhà thơ đối diện với trăng trong cái lặng im có phần thành kính; từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa tạo ý thơ gợi mở cho người đọc, nhà thơ đối diện với trăng hay thiên nhiên đối diện với con người; và có lẽ cũng là hiện tại đối diện với quá khứ, bạc bẽo vô tình với thủy chung gắn bó. Bất ngờ gặp lại người bạn cũ, nhà thơ chợt nhận ra thứ mặt nạ của thời gian đã che lấp tất cả, trong giây phút ấy, nhà thơ tưởng như “rưng rưng” xúc cảm – tự hổ thẹn với chính sự đổi thay vô tình của bản thân. Nhưng cũng đan xen vào nỗi hổ thẹn đó, một cảm xúc nghẹn ngào vui sướng đang len lỏi vào trái tim khô cằn bấy lâu nay của nhà thơ, gặp lại trăng – gặp lại người bạn cũ, ông chợt hồi tưởng lại một quãng thời gian thương nhớ, với đồng, với bể, với sông với rừng. Cuộc sống hiện tại như ngừng lại nhường chỗ cho dòng kí ức ùa về, nhường chỗ cho giây phút tự nhìn lại bản thân. Câu thơ trải dài bao quát cả quá khứ và hiện tại, thiên nhiên và con người, lao động và chiến đấu, thủy chung tình nghĩa và bạc bẽo vô tình. Trăng còn gợi đến hình ảnh của hiện tại, của vẻ đẹp thiên nhiên mơ màng hùng vĩ, gợi lên những bừng tỉnh đột ngột để nêu lên một khát vọng lớn lao vào tương lai. Nhịp thơ nhanh, với một loạt các từ ngữ liệt kê “đồng”, “biển”, “rừng”, “sông” cuốn vào mạch cảm xúc của bài thơ, giúp người đọc như cùng chung cảm xúc với nhân vật, với hoàn cảnh trữ tình.
Từ những hồi tưởng và thức tỉnh, nhà thơ đi đến suy ngẫm và triết lí nhân sinh sâu sắc khái quát nội dung toàn bài thơ:
Trong cuộc gặp mặt bất ngờ, trăng và người như có sự đối lập. Trăng trở thành biểu tượng của sự vĩnh hằng bất biến, vầng trăng “cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho sự tròn đầy, trọn vẹn tình nghĩa của thiên nhiên, cuộc sống và con người trong quá khứ dù cho con người nay đã đổi thay “vô tình”. Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”, gợi cái nhìn bao dung, độ lượng mà nghiêm khắc của người bạn thủy chung. Hình ảnh thơ được lấy từ hiện thực – thiên nhiên bất biến, vĩnh hằng để khái quát nên một lẽ sống cao đẹp 1 tình nghĩa, trọn vẹn, chung thủy và vị tha. Tấm lòng đáng trân trọng ấy là tấm lòng của những người đồng chí đồng đội một thời sống chết vì nhau của đồng bào nhân dân đã san sẻ từng “chia nhau củ sắn bùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Cao đẹp biết bao là tình người vị tha, bao dung, độ lượng, vị tha để, người bạn vô tình được “giật mình” thức tỉnh và kịp có một cơ hội níu giữ quá khứ, níu giữ tấm lòng trong sạch, thanh cao.
Có lẽ vì thế mà chỉ ánh nhìn “im phăng phắc” là đã đủ, câu thơ cuối dồn nén nghẹn ngào tạo âm vang lớn trong lòng người đọc về những bừng tỉnh suy tư.
Ánh trăng gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị, thủ thỉ tâm tình, giọng thơ trầm tĩnh, Bài thơ không chỉ giống một câu chuyện nhỏ mà còn như một áng văn nghị luận xã hội đầy chất thơ, sự mạch lạc tuần tự của tự sự và nghị luận giúp bài thơ đi vào tâm trí người đọc thật dễ dàng, tự nhiên, khắc sâu triết lí sống cao đẹp, thủy chung có tình có nghĩa, bộc lộ niềm băn khoăn trăn trở trước thực tại:
Chất tự sự và chất trữ tình đan xen hòa quyện vào từng âm điệu, dòng thơ. Các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện dòng cảm xúc mãnh liệt của tác giả. Nhịp thơ khi ngân nga, vang, vọng, khi dồn dập, mạnh mẽ, lúc trầm lắng ăm ắp suy tư tạo cho tác phẩm sự trôi chảy, mượt mà, tự nhiên và nhịp nhàng trong dòng cảm xúc dâng trào.
Câu chuyện của nhà thơ không chỉ dành riêng cho chính bản thân ông, nó còn có sức khái quát rất lớn với cả một thế hệ trải qua những năm dài mất mát của chiến tranh, nơi đạn bom, gian khổ. Câu chuyện của vầng trăng còn gặp lại nhiều câu chuyện khác – cùng với nỗi xót xa, trăn trở về cuộc sống đổi thay, như Ăn mày dĩ vãng với Ba Sương và Hai Hùng của Chu Lai, như Việt Bắc với “mình” và “ta” của Tố Hữu. Tất cả như đồng lòng nhất trí chung sức rung một hồi chuông lớn đến người đọc: đừng bao giờ quên quá khứ đừng bao giờ sông bạc bẽo vô tình. Cuộc sống dẫu có đổi thay lòng người dẫu có xa khác, nhưng đừng bao giờ quên đạo lí thủy chung “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, đừng bao giờ đánh đổi tình nghĩa sâu nặng lấy những phù phiếm hão huyền.
Cuộc sống là những chuỗi biến chuyển và đổi thay mà con người không thể nào lường trước được. Đôi khi chúng ta bị cuốn theo dòng chảy bất tận của nó mà vội vã bỏ quên những giá trị, những nghĩa tình thuỷ chung cũng chưa xa trong quá khứ. Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ vĩ đại của dân tộc – cuộc chiến mà biết bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống cho sự thống nhất của dân tộc, cuộc chiến mà trong nó hiển hiện bao nhiêu chiến công lẫy lừng, bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng, chúng ta thật xót xa khi phải chứng kiến sự thờ ơ, lạnh nhạt của con người trước những năm tháng tưởng như không thể nào quên ấy. Văn học thời kì đó nhận thức rõ điều đó. Nhiều tác phẩm đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đầy ngỡ ngàng và chua xót đối với cái xã hội đang quẩn quanh trong nỗi lo cơm áo gạo tiền. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một trong số đó.
Tác giả đặt nhan đề cho bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ánh trăng – vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng, biển bạc. vầng trăng ấy đã theo chân tác giả thuở còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn con người với một vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa, con người và vầng trăng đã trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ đó bền chặt, xoắn xuýt qua bao nhiêu chuyển biến của thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên:
Nhưng cuộc đời không phải sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay, không phải bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua ta nâng niu trân trọng bao nhiêu thì hôm nay rất có thể trở thành thừa thãi, vô nghĩa, xa lạ, lạnh lùng,… bấy nhiêu. Quá khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn chỉ là quá khứ, Tần có thể bị che khuất bởi những lo toan, dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ở đây tác giả đã kể lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át bởi “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người, vầng trăng tri kỉ của những ngày chưa xa ấy, chua xót thay, giờ đây lại chỉ như “người dưng qua,đường”. Cái ngớ thân quen xưa nay trở nên âm thầm và xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ đã tạo nên bước ngoặt của tác phẩm, khi để tình huống bất ngờ “đèn điện tắt” xảy ra. Lúc đó, con người đối diện với vầng trăng tròn trịa ân tình trong quá khứ, khiến họ chợt nhận ra vẻ đẹp và giá trị đích thực của những ngày xưa cũ ẩn sau sự dịu dàng, bao dung của ánh trăng.
Trên cơ sở đó, tác giả đã viết nên khổ thơ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triết lí sâu sắc của toàn bài thơ.
Vầng trăng vẫn còn đó, trọn vẹn và cao thượng đến lạ lùng. Mặc cho con người có thờ ơ, lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên, thanh bạch. Vầng trăng đó biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ, thiếu thốn mà hào hùng, vinh quang thuở trước, cho tấm lòng của nhân dân yêu thương, chở che, đùm bọc cách mạng:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân tình thuỷ chung của một thời oanh liệt – dù đã lùi xa ẩn mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường tồn cùng thời gian. Sự tròn đầy, viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của con người càng làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước tòa án lương tâm. Quả thật, chẳng có toà án nào xét xử sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri ở sâu thẳm tâm hồn mới đánh thức trong chúng ta trách nhiệm với quá khứ. Sự cao thượng, vị tha của vầng trăng bất chấp ta vô tình, xa lạ – buộc nhà thơ phải suy nghĩ lại về chính mình. Bài thơ được sáng tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng của dân tộc. Tại sao chỉ ba năm với cuộc sống thị thành, với những bộn bề lo toan thường nhật lại có thể làm người ta lãng quên hơn mười ngàn ngày trong lửa đạn, thiếu thốn, trong ấm áp tình đồng đội, trong/vòng tay che chở của nhân dần? vẫn biết không có gì là mãi mãi trước sức mạnh xói mòn của dòng chảy thời gian nhưng những điều đang diễn ra vẫn khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng nhìn lại.
Con người ta lãng quên nhanh quá! Còn vầng trăng vẫn nặng lòng sáng soi. Với biện pháp nhân hoá tinh tế:
Advertisement
Ánh trăng im phăng phắc
Ta đã thấy sự bao dung cao cả của vầng trăng quá khứ. Nó im lặng trước sự bội bạc vô tình của con người, cái im lặng dịu dàng, tha thứ nhưng lại như một lời trách cứ nghiêm khắc xoáy sâu vào tâm hồn nhà thơ. Thật lạ, chính sự im lặng ấy, tưởng như yếu ớt và lẻ loi ấy lại có sức mạnh khiến con người ta phải trầm ngâm xét lại mình. Họ chợt nhận ra giá trị của những điều mình đã bỏ quên – quá khứ của chính mình và một thời hào hùng oanh liệt của toàn dân tộc:
Đủ cho ta giật mình
Giọng thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình” được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch giàu sức biểu cảm làm toát lên ý nghĩa toàn bài thơ. Nó không chỉ thể hiện sự ân hận của con người mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều nhà thơ muốn nói với cái xã hội đang quay cuồng quanh vòng xoáy của bao lo toan và mưu tính.
Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và lại càng không có tương lai! Tất cả những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đã qua. Tất cả những gì chúng ta đang làm đều là tiếp nối những điều cha ông ta và chính chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến người đọc qua những vần thơ?
Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người, làm thay đổi con người và xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng biệt về nghệ thuật và nội dung, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ thơ cuối bài là một chút “giật mình” của tác giả, hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã hội chúng ta!
Trăng – hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là những nơi chôn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nơi đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên của tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong những năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
Vầng lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn – vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với một hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loá. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đọc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chính là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
….
Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Bài Thơ Nhớ Đồng Của Tố Hữu (Dàn Ý + 5 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 11
Dàn ý phân tích bài thơ Nhớ đồng1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Tố Hữu
Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất.
Ông là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
– Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích
Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.
2. Thân bài
a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù
– Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.
Tiếng hò được lặp lại nhiều lần. Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữa trời trưa → nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh
– Lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài
– Tiếng hò đã đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh → Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê, cuộc sống bên ngoài nhà tù.
Tiếng than khắc khoải, da diết → diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài → nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời.
Sự lặp lại → nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng → triền miên vì nỗi nhớ da diết.
– Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:
Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.
– Con người gần gũi thân thuộc thân thương:
Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.
– Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến
– Nhớ đến bản thân mình:
Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.
“Rồi một …ngát trời”
→ Say mê lý tưởng, khao khát tự do sôi nổi ⇒ càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam cầm.
b. Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu
– Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:
Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đậm đà với: cồn thơm, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng, con đường thân thuộc → những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương nay đã trở nên xa cách.
Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người → người mẹ già nua → nhớ chính mình
Nỗi nhớ trải dài từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại
⇒ nhớ, tràn ngập xót thương → không chỉ buồn đằng sau là nỗi phẫn uất, bất bình với thực tại ⇒ niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.
3. Kết bài
Đây là bài thơ hay, giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ đồng quê, con người, chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc sống bên ngoài nhà tù và bao trùm hơn hết là tình yêu Tổ quốc, khát vọng tự do.
Lựa chọn hình ảnh gần gũi, quen thuộc, giọng thơ da diết, khắc khoải trong nỗi nhớ
Phân tích Nhớ đồng – Mẫu 1Tố Hữu – một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông được kết nạp đảng năm 1938 thì đến năm 1939 trong quá trình hoạt động đã bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ, hoạt động cách mạng hăng say và nhiệt huyết là thế nhưng lại bị bắt giam nên trong quá trình bị giam cầm ông đã sáng tác một tập thơ mang tên “Từ ấy”, bài thơ “Nhớ đồng” nằm trong phần “Xiềng xích” của tập thơ nói về tâm trạng nhớ quê hương, cách mạng của ông những ngày tháng sống trong trại giam.
Trong hoàn cảnh bị giam cầm tù hãm, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi những u buồn, nhớ thương, chính tiếng hò vang vọng đâu đó đã đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người tù. Giữa không gian đồng không mông quạnh trưa nắng, một con người lẻ loi, cô độc đang bị giam cầm tách biệt với cuộc sống bên ngoài.
“Gì sâu bằng” ấy là nói về nỗi nhớ sâu thẳm trong cõi lòng tác giả, điệp từ “đâu” ở đầu suốt năm câu thơ như là nỗi day dứt tìm kiếm trở về với cuộc sống khi xưa, tìm kiếm sự yên bình nơi quê hương trong sự ngậm ngùi:
Bức tranh cuộc sống sinh hoạt làng quê thân thương và rất đỗi bình dị hiện ra trước mắt người tù cộng sản, chỉ là tưởng tượng thôi nhưng nó sống động và tuyệt đẹp, giàu xúc cảm biết bao. Không chỉ là cảnh đồng lúa, khóm tre, nương rẫy hay những mái nhà tranh, ở trong tâm tưởng của nhà thơ còn có con người, những người nông dân cơ cực vất vả nhưng ấm áp tình người.
Đâu đó còn là bóng dáng của người mẹ thương nhớ càng siết chặt thêm nỗi khắc khoải khôn nguôi của nhà thơ, tác giả như chìm đắm, say trong những cơn nhớ nhung không dứt “Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ…” từng lời như đang than thở vì sự bất khả kháng với hoàn cảnh của chính mình, không thể thoát ra để giải tỏa nỗi lòng. Người chiến sĩ trẻ nhớ về những ngày đầu đến với lý tưởng cách mạng và thời hoạt động cách mạng tự do của mình:
Trước là nhớ về quá khứ tối tăm ngột ngạt của mình để như khẳng định hơn sự sáng suốt và đúng đắn, niềm hạnh phúc khi tìm được lý tưởng cách mạng, và rồi tác giả tự cho mình những giây phút say trong niềm khao khát hoạt động cách mạng ấy, tâm trạng u buồn bỗng nhiên được tưới mát trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, “Nhẹ nhàng như con chim cà lơi”, cánh chim tượng trưng cho sự tự do tự tại và tác giả đang ví mình là những con chim đó, say trong đồng hương nắng như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Nhưng dù có cố gắng cách mấy nhà thơ cũng không tránh khỏi sự đối mặt với thực tại bị giam hãm trong lao tù, hai câu thơ kết lặp lại y nguyên hai câu thơ đầu, nhấn mạnh sự bất lực, bế tắc không có lối thoát. Mặc dù vậy tư tưởng hướng về quê hương và cách mạng vẫn còn đó, khát vọng về một ngày được tự do được hoạt động cách mạng vẫn luôn cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản.
Qua bài thơ “Nhớ đồng” người đọc không chỉ cảm nhận được một tình yêu quê hương tha thiết của Tố Hữu mà còn thấy hiện lên một người chiến sĩ cộng sản yêu lý tưởng cách mạng, yêu đất nước và khát vọng tự do hành động, hy sinh vì Tổ quốc.
Phân tích bài thơ Nhớ đồng – Mẫu 2Bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu được lấy cảm hứng từ một tiếng hò thân thuộc của quê hương và tiếng hò ấy trở thành mạch cảm xúc của bài thơ.
Về mặt hoàn cảnh trữ tình, khi nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời trưa, thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh, và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Đó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, của thời gian trưa vắng, của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đang bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài.
Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà mình đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lí về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thể sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nổ là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.
Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trước hết có tác dụng liên kết. Lặp và điệp từ là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch ý. Nhưng quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại này bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp từ tạo ra một nhịp điệu luân hồi, triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.
Đồng quê hiện lên rất đậm nét qua nỗi nhớ của tác giả. Đó là những cảnh sắc như đồng ruộng với những cồn thơm, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai sắn ngọt bùi; xóm nhà chìm lặng, con đường mòn mỏi theo năm tháng. Tất cả đều là những cảnh sắc đơn sơ quen thuộc mà rất đỗi thân thương. Là những bóng dáng người lao động lam lũ, nhọc nhằn, và nhất là bóng dáng người mẹ già đơn chiếc – những kiếp người muôn đời gắn bó với đất đai. Họ chất phác và bền bỉ như đất đai.
Tóm lại, Nhớ đồng là nhớ toàn bộ cuộc sống bên ngoài mà giờ đây đã trở nên cách biệt đối với người chiến sĩ bị tù đày.
Nhớ đồng là một tâm trạng khá chân thực và trọn vẹn với những diễn biến tự nhiên, liền mạch. Nỗi nhớ bắt đầu dâng lên khi nghe thấy tiếng hò. Tiếng hò gợi dậy tất cả những gì của thế giới đồng quê bên ngoài. Đầu tiên là nhớ những cảnh sắc, rồi nhớ đến những bóng dáng con người: từ những người lao khổ trên đồng đến hình bóng thân yêu nhất là người mẹ già nua đơn chiếc. Rồi nhớ về chính mình những ngày chưa bị giam cầm, tóc đang được tung hoành trong bầu trời tự do bát ngát. Cuối cùng khi trở lại với thực tại bị giam cầm, trong lòng tác giả trĩu nặng một nỗi nhớ triền miên.
Nỗi nhớ bắt đầu từ hiện tại đi ngược về quá khứ rồi cuối cùng lại trở về hiện tại; từ thực tại giam cầm ngược về thuở tự do rồi lại trở về với thực tế giam cầm. Nó không chỉ có nhớ nhung mà còn tràn ngập xót thương, không chỉ có buồn rầu thương nhớ cuộc đời mà còn cháy bỏng niềm khao khát tự do. Và quan trọng hơn, bên dưới tâm trạng ây là một nỗi bất bình, phẫn uất với thực tại.
Bài thơ mang tên Nhớ đồng nhưng cảm xúc và hình ảnh không dừng lại ở nỗi nhớ đồng, mà đó còn là sự nhớ thương cuộc sống, nỗi lòng khao khát tự do và bất bình với thực tại.
Phân tích bài thơ Nhớ đồng – Mẫu 3Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.
Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.
“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:
Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.
Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:
Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con người, mùi hương, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.
Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:
Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phẩm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.
Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:
Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi“. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.
Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên. Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.
Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.
Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.
Phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu – Mẫu 4Tiếng thơ cất lên trong ngục tù, vọng nỗi niềm khắc khoải thiết tha của chàng thanh niên 19 tuổi Tố Hữu hướng về cuộc sống tự do, tất cả những hình ảnh, cảm xúc hòa quyện làm thành một nỗi nhớ gắn kết nhà thơ với thế giới bên ngoài. Nhớ đồng viết trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, trong cái im ắng không gian trưa để tác giả nghe tiếng vọng lòng mình rõ nhất.
Dấn thân vào chốn lao tù khi tuổi đời còn quá trẻ, Tố Hữu mở đầu phần “Xiềng xích” với Tâm tư trong tù, cảm nhận rõ hoàn cảnh mất tự do, xác định ý chí sắt đá của người chiến sĩ, tự động viên mình vượt lên nghịch cảnh, tách biệt lí trí và tình cảm có phần cực đoan và bồng bột. Nhưng đến Nhớ đồng, ta bắt gặp một Tố Hữu hoàn toàn khác, có sự chín chắn hơn sau những thử thách đầu tiên. Nếu không hiểu hoàn cảnh này, ta cứ ngỡ bài thơ mang tâm trạng của một khách tha phương vọng về cố xứ! Cũng dễ hiểu thôi, khi Tố Hữu làm thơ cũng là lúc Thơ Mới đang chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn, là một người trẻ tuổi yêu thơ, chắc chắn nhà thơ dễ cảm được nỗi lòng của những bạn trẻ đồng trang lứa. Có ngẫu nhiên chăng khi bị lâm vào cảnh tù hãm, Tố Hữu lại viết một loạt những “Nhớ người”, “Nhớ đồng” như một cách cắt nghĩa khác với “Nhớ rừng” của Thế Lữ – thác lời con hổ trong cảnh sa cơ nhớ thời oanh liệt! Cũng là nhớ, nhưng nhà thơ lãng mạn để cho nỗi nhớ khơi dậy niềm kiêu hãnh và nỗi ngậm ngùi thân phận cá nhân, đề cao và khẳng định vị thế của cái Tôi. Còn Tố Hữu thông qua nỗi nhớ, xác lập các mối liên hệ với thế giới bên ngoài, thấm thía cả vẻ đẹp và nỗi buồn cuộc đời, gửi gắm tình yêu cuộc sống và cũng là nhận thức của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, vừa da diết bâng khuâng vừa hăm hở sôi nổi. Có một cái Tôi – chiến sĩ và thi sĩ – càng lúc càng đằm thắm, đầy tinh thần lạc quan tin tưởng vào lý tưởng, trên tinh thần “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”!
Sau khoảnh khắc cảm nhận “gì sâu bằng” như một cách cắt nghĩa lòng mình, ùa về trên những dòng thơ của Nhớ đồng là bao hình ảnh ngồn ngộn sức sống của đồng quê quen thuộc:
Không gian sau nỗi nhớ thật bình dị thân thuộc, khắc khoải một tâm trạng kiếm tìm, nuối tiếc, trân trọng những vẻ đẹp của nhà thơ. Làng quê hiện về trong kí ức với hương của đất, bóng mát lũy tre làng, sắc xanh nao lòng của mạ và vị ngọt bùi khoai sắn gợi một cảm giác thật bình yên, đáng yêu đáng quí. Cái nhìn từ tâm trạng của một người bị mất tự do thật thấm thía khi “một tiếng hò” vọng vào làm hiện lên bao hình ảnh cuộc sống bên ngoài càng gợi nhớ gợi thương. Và nhà thơ còn cảm nhận được cái “hiu quạnh” của những cuộc đời quẩn quanh tù túng, lặng lẽ trôi đi trong nhịp đời day dứt buồn thương:
Có đáng buồn không những thân phận lầm lũi sau lũy tre làng, những cuộc đời chìm trong bóng tối mang theo cả cái ngột ngạt của cuộc sống “âm u”, gợi tình cảnh đất nước chìm đắm trong kiếp nô lệ! Cái “hiu quạnh” không phải do tác động từ không gian ngoại cảnh mà bắt nguồn từ nhận thức của người chiến sĩ đã dấn thân trên con đường cách mạng, nhận ra bi kịch của dân tộc mình, đồng bào mình! Niềm thương cảm cho những cuộc đời “không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” như quặn thắt trong lòng nhà thơ, như một sự chia sẻ ngậm ngùi. Bức tranh cuộc sống trong “nhớ đồng” đâu chỉ là vẻ đẹp mà còn là ám ảnh nỗi niềm tâm sự của người dân mất nước, man mác như một khúc Nam ai xứ Huế.
Nỗi buồn thương vẳng vào từ câu hò, làm thành tiếng vọng từ trong lòng nhà thơ hướng ra bên ngoài tha thiết: “Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh – Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”. Phải chăng nhà thơ đang cất lên “tiếng gọi đàn”, đánh thức những hồn đồng điệu? Trân trọng biết bao những vần thơ cảm nhận về vẻ đẹp con người làm nên cuộc sống:
Tình cảm gắn bó con người xuất phát từ nhận thức về mối liên hệ giữa người chiến sĩ với quần chúng cách mạng. Khổ thơ bộc bạch vẻ lạc quan, thi hứng gợi nhắc vần thơ trong “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của nhà thơ lãng mạn Pháp V. Hugo:
(Xuân Diệu dịch)
Khổ thơ của Tố Hữu không đơn độc một bóng hình ông lão, mà khái quát hình ảnh “những lưng cong xuống luống cày” – hình ảnh con người nhân dân giản dị mà vĩ đại với cuộc đời cần lao thắp lên niềm hy vọng tương lai, “vãi giống tung trời những sớm mai”! Có ngẫu nhiên chăng sự gặp gỡ trong hình ảnh biểu tượng “bàn tay” gieo hạt của nhà thơ lãng mạn Pháp và người chiến sĩ trẻ Tố Hữu? Phải mở lòng ra với cuộc sống, mới nói lên hết được tình yêu và niềm tin ở con người tha thiết vậy. Giữa những nông dân trên cánh đồng cần mẫn và người chiến sĩ đấu tranh vì cái đẹp cuộc đời, đã có sự đồng cảm của người gieo mầm cho một tương lai tốt đẹp!
Điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ…” lại cất lên, sau những hình ảnh đầy xao xuyến về cuộc sống: chiều sương phủ bãi đồng, lúa mềm xao xác, những nhịp điệu những âm vang “tiếng xe lùa nước” hòa với “một tiếng hò” như miết vào tâm khảm, làm nỗi nhớ như sâu hơn, lắng đọng hơn! Có lẽ đến lúc này nhà thơ mới thật thấm thía cảm giác của một người bị giam hãm trong bốn bức tường xà lim để hiểu rõ giá trị cuộc sống tự do lớn lao biết chừng nào! Những khổ thơ tiếp nối có sự chuyển mạch cảm xúc, vọng về nỗi niềm riêng tư. Nhà thơ lưu luyến tiếc nhớ, khắc ghi những bóng hình cuộc sống vào trái tim nhạy cảm của mình, khi thực tại chỉ có một mình đối diện không gian quạnh quẽ của nhà lao:
Ta chợt phát hiện ra giây phút yếu lòng nhất của chàng trai Tố Hữu! Nhưng đó là tâm trạng hoàn toàn hợp lý, khi con người bị bủa vây bởi nỗi cô đơn, sự vắng lặng thì càng khắc khoải nhớ về người thân yêu, đặc biệt là người mẹ như muốn tìm một chốn chở che, để được vỗ về yêu thương. Thú vị hơn là trong khổ thơ này, ta gặp nỗi niềm từng cất lên trong Thơ Mới “Chao ôi mong nhớ, ôi mong nhớ – Một cánh chim thu lạc cuối ngàn” (Chế Lan Viên). Quả thật, thơ Tố Hữu “thoát thai từ Thơ Mới” nhưng tinh thần thì hoàn toàn khác. Nỗi nhớ sau tiếng than “chao ôi…” của nhà thơ là “mẹ già xa đơn chiếc” rất cụ thể, rất đời thường và tạo cảm giác gần gũi thân thiết chứ không phải là một bóng hình tan biến vụt bay vào hư vô như câu thơ của họ Chế! Mẹ ở đây còn là quê hương, là những gì thiêng liêng nhất, sâu thẳm nhất bền chặt nhất của đời người. Câu thơ còn làm ta hiểu sâu sắc về tâm hồn người cộng sản. Để rồi từ mẹ quê, nhà thơ lại nhớ về những người “chất phác”, “thật thà” mang theo hồn quê, tình quê hương đất nước. Những hình ảnh thật cảm động ấy không còn thuộc về thế giới ngoại cảnh mà đã thật sự thành máu thịt, tâm hồn nhà thơ, Để rồi, chính những tình cảm ấy những con người ấy đem lại cho nhà thơ nguồn sức mạnh, sự tỉnh táo nhìn lại chính mình, khẳng định một sự chọn lựa dứt khoát và đúng đắn. Hai khổ thơ nói về bản thân là sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tràn đầy niềm hạnh phúc được hòa nhập với những quần chúng lao khổ:
Đó cũng là lúc nhà thơ bộc bạch trọn vẹn nhất cái tôi của mình. Không phải là một cái tôi buồn, cô đơn và yếu đuối như các thi sĩ lãng mạn đồng trang lứa mà là cái tôi tràn đầy tình yêu và niềm tin với cuộc đời. Hình ảnh thơ tái hiện lại khoảnh khắc xúc động và thiêng liêng khi nhà thơ đứng vào đội ngũ chiến đấu: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ – Mặt trời chân lí chói qua tim…”. Không còn những do dự, “vẩn vơ”, “quanh quẩn” của thuở “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” mà thực sự nhà thơ đã trưởng thành, vững vàng một niềm tin, sẵn sàng chiến đấu cho lí tưởng. Dẫu cho thực tại, nhà thơ phải chịu cảnh tù đày, nhưng vẫn “mơ qua cửa khám bao ngày”, hướng lòng mình về cuộc sống tự do, dẫu có chút ngậm ngùi “như cánh chim buồn nhớ gió mây” nhưng vẫn ánh lên một khát vọng được tung cánh, được bay nhảy trong vùng trời tự do.
Bài thơ Nhớ đồng mang theo âm hưởng của một điệp khúc tâm trạng da diết nhớ thương con người và cuộc sống, làm nên những cung bậc trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình phong phú đa dạng. Thực chất của “nhớ đồng” là nhớ những mối dây liên hệ với cuộc đời, là lời tự nhắc nhở động viên mình của nhà thơ, trong hoàn cảnh lao tù. Giọng thơ khắc khoải, thấm đượm những ân tình sâu nặng của con người hiểu rõ và yêu mến đất nước, nhân dân, khao khát tự do. Chính cuộc sống giản dị, con người chất phác đã đem lại cho nhà thơ sức mạnh tinh thần, lạc quan trước hoàn cảnh, vững vàng trong thử thách đầu đời. Cái đáng quý nhất là chất trẻ trung, tươi mới của hồn thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng, lí trí và tình cảm hòa quyện giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, tiêu biểu cho tinh thần của những chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.
Những vần thơ như vậy trong Nhớ đồng nói riêng và tập thơ Từ ấy nói chung giúp ta thêm hiểu và trân trọng thế hệ cha anh, sẽ mãi còn vang ngân trong lòng các thế hệ tương lai.
Phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu – Mẫu 5Tố Hữu (1920 – 2002) xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đã đóng góp cho nền văn học việt Nam đặc biệt vào thời kì cách mạng, thơ của ông mang tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Những tác phẩm của Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần dân tộc. Ông xứng đáng là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Nhớ đồng là một trong số những bài thơ tiêu biểu phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đồng bào, đồng chí Những tâm tư ấy được thể hiện trong bài thơ Nhớ đồng một cách thâm trầm, da diết. Qua bài thơ Nhớ đồng đã góp phần cụ thể hóa thành nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Advertisement
Cả bài thơ có thể chia làm bốn đoạn,ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ sâu sắc kết thúc bằng câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng. Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.
Bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo khác nhau, nỗi nhớ đó trải dài xuyên suốt cả bài thơ, bắt đầu với biện pháp sử dụng những câu hỏi tu từ ở cuối mỗi khổ thơ: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới góp phần thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù,mong ngóng được trở về từng ngày.
Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định rằng có một thứ gì, không có một cái gì, không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam. Tố Hữu đã sử dụng những câu hỏi tu từ kết hợp với tính từ mang tính chất mãnh liệt khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Câu hò quen thuộc của xứ Huế là cái cớ gọi về nỗi nhớ,nó giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù. Những âm thanh đó đã ăn sâu vào kí ức của chính tác giả, cũng giống như âm thanh của tiếng hò Huế, âm thanh của tiếng gà trưa của thơ Xuân Quỳnh cũng có lúc kéo nhân vật trữ tình về với những nỗi niềm thương nhớ như vậy. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy biết bao hình ảnh của cuộc sống giản dị mến thương trong tâm tưởng nhà thơ.
Năm từ “ đâu” xuất hiện trong mười câu thơ, giống như một sự tiếc nuối của tác giả những năm tháng xưa cũ,hiện tại đâu còn, chỉ là nhắc nhớ lại vậy thôi. ở đây bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang hững hờ. Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp biết bao. Nhưng quê hương giờ đây chỉ còn sống trong tâm tưởng của tác giả, khi xung quanh là 4 bức tường của lao tù. Những câu hỏi trăn trở lặp đi lặp lại nhiều lần phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:
Câu cảm thán được sử dụng, như một tiếng lòng của tác giả, không thể để mãi trong lòng nên đành thốt lên: “ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!” . nhớ đến những trưa thương nhớ, đồng quê nhớ những thứ thân thuộc, tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực của những người nông dân cơ cực,nhưng họ không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những dáng hình thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt tái hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Bóng dáng quen thuộc hiện ra, mẹ già thương nhớ, những hôm mưa nắng dãi dầm, những mảnh tình người thân thiết ấm nồng, những hồn thơ thắm thiết, như thắt chặt sự nỗi nhớ da diết với các hình ảnh quen thuộc. Nhưng tất cả chỉ còn trong tưởng tượng:
Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Khiến người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này, bất lực với tâm trạng của mình,chẳng thể thoát ra ngoài.
Điều quan trọng sau tất cả nỗi nhớ đó là khi tác giả ngộ ra lí tưởng cách mạng:
Đó là những ngày tháng mà người thanh niên yêu nước băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Tưởng nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi được “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Tố hữu nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với biết bao kì vọng, lạc quan, để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động.
Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn. Cảm xúc chuyển từ nỗi nhớ quê hương nhớ hình ảnh quen thuộc và rồi cô đúc lại thành:
Nỗi nhớ mênh mang được ví với hình ảnh so sánh: Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày. Cánh chim đó, cánh chim của tự do,của tình yêu quê hương,cánh chim bay vút lên để đón nhận lí tưởng cao đẹp
Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu đầu, tác giả đã sử dụng kết cấu vòng, và bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng và lan tỏa
Nhớ đồng là bài thơ góp phần diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản, đó là những cảm xúc hết sức chân thực, những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng cùng với đó là tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Từ chính những cảm xúc đó càng thôi thúc tác giả quyết tâm nung nấu ý chí để vượt lên khó khăn thách thức.
Dàn Ý Sóng Của Xuân Quỳnh ❤️️14 Mẫu Dàn Ý Phân Tích Hay
Dàn Ý Sóng Của Xuân Quỳnh ❤️️ 14 Mẫu Dàn Ý Phân Tích Hay ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Mẫu Tư Liệu Tham Khảo Giúp Bạn Học Tốt Tác Phẩm Ngữ Văn Lớp 12.
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước, là thi sĩ của tình thương, lòng trắc ẩn và hồn thơ nữ tính.
Giới thiệu bài thơ Sóng: sáng tác năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào, là bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu cho hồn thơ giàu chất nữ tính của Xuân Quỳnh.
II. Thân bài
1.Bản chất, quy luật của “sóng” và “em”
-Khổ 1:
Sử dụng nghệ thuật tương phản: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, từ đó khái quát trạng thái đối lập của sóng, gợi liên tưởng đến tâm lí của người phụ nữ khi yêu (khi mãnh liệt khi lại dịu dàng).
Nghệ thuật nhân hóa: “sông không hiểu” được bản tính của sóng, nên “sóng ” muốn tìm đến không gian rộng lớn, hành trình của sóng là hành trình khám phá chính bản thân mình, khát khao vươn tới giá trị tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ.
-Khổ 2:
“Ôi con sóng… và ngày sau vẫn thế”: dù trong quá khứ hay hiện tại sóng luôn dạt dào, sôi nổi, luôn khát vọng. Đó cũng là khát vọng và bản tính của người phụ nữ muôn đời.
“Nỗi khát vọng tình yêu… ngực trẻ”: liên hệ tình yêu của tuổi trẻ với con sóng của đại dương, khát vọng tình yêu là khát vọng đặc trưng muôn đời của tuổi trẻ.
2.Những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu
–Khổ 3: Điệp ngữ “em nghĩ về” và câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhấn mạnh niềm khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu và nhận thức về tình yêu muôn đời.
–Khổ 4: Xuân Quỳnh dựa vào quy luật tự nhiên để tìm khởi nguồn của sóng, của tình yêu, gợi lên sự trăn trở trước bí ẩn của tình yêu, thời điểm bắt đầu tình tình yêu.
3.Nỗi nhớ, lòng thủy chung của người con gái trong tình yêu
-Khổ 5:
Nghệ thuật tương phản để gợi ra những phạm vi không gian khác nhau “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, phạm vi thời gian khác nhau: ‘”ngày” – “đêm”, nghệ thuật nhân hóa: “ngày đêm không ngủ được”, diễn tả nỗi nhớ dạt dào, triền miên của sóng với bờ cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.
Người phụ nữ bày tỏ nỗi nhớ một cách trực tiếp, mạnh dạn, chân thành “Lòng em nhớ đến anh”, cách nói thậm xưng “Cả trong mơ còn thức” thể hiện nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức, thường trực trong suy nghĩ.
-Khổ 6:
Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.
Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.
4.Khát vọng tình yêu vĩnh cửu
-Khổ 7: Khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ… Dù muôn vời cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.
-Khổ 8:
“Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.
“Như biển kia… bay về xa”: cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.
-Khổ 9:
“Làm sao”, đó là khát khao của người phụ nữ được sống trong “biển lớn tình yêu” bằng tình yêu và cùng tình yêu
Khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.
III. Kết bài
-Nêu cảm nhận về bài thơ Sóng
-Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
Nội dung: qua hình tượng sóng diễn tả tình yêu thiết tha, nồng nàn của người phụ nữ, Xuân Quỳnh đã thể hiện quan niệm tình yêu mới mẻ, hiện đại: sự chủ động của người phụ nữ trong tình yêu nhưng vẫn giữ được nét truyền thống.
Nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị,…
Giới thiệu tuyển tập 💧 Mở Bài Sóng Của Xuân Quỳnh 💧 20 Đoạn Văn Hay Nhất
I. Mở bài:
Sóng là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh. Bài thơ diễn tả tâm hồn của người phụ nữ đang yêu với những rung động, trăn trở, băn khoăn đầy khao khát.
II. Thân bài:
1.Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác 29.12.1967. Lúc này trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ vô cùng ác liệt, dữ dội
2.Hai khổ thơ đầu: Những đặc điểm về tình yêu của con người nói chung và người con gái nói riêng
Xuân Quỳnh đã sử dụng những đặc tính của sóng để biểu đạt những sắc thái của tình yêu trong “em” có sự “dữ dội” mà cũng rất “dịu êm”, có “ồn ào” nhưng vẫn “lặng lẽ”. Có những biểu hiện đối lập cùng tồn tại, sóng bất thường và tình yêu của em cũng bất thường như sóng.
Sóng luôn tự tìm về biển nên mới “tìm ra tận bể”: những bí ẩn của sóng và những bí ẩn trong nỗi niềm của người phụ nữ đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật tinh tế.
Con sóng tình yêu muốn vượt ra khỏi những gì hạn hẹp để đến với bể lớn tình yêu bát ngát. Nỗi niềm của “em”, của người phụ nữ đang yêu được Xuân Quỳnh hiểu thấu và nói lên bằng hình ảnh thơ cụ thể mà cũng thật trừu tượng.
“con sóng ngày xưa…ngày sau vẫn thế…” : con song muôn đời vẫn thế, luôn trẻ trung, vĩnh hằng, bất diệt với thời gian, năm tháng cũng như tình yêu luôn tồn tại, gắn liền với ước mơ, khao khát về hạnh phúc, cuộc sống của tuổi trẻ
3.Hai khổ 3 và 4: Nguồn cội của tình yêu khiến tác giả có những trăn trở của riêng mình.
Trước không gian bao la vô ngần, thời gian hữu hạn nhân vật “em” bất giác nghĩ về “anh”, về “em”, về tình yêu của chúng ta. Lấy cớ hỏi sóng đến từ đâu nhưng cái chính là muốn hỏi về chính nguồn cội tình yêu của mình. Ở đây ta thấy được nhà thơ nhấn mạnh niềm khát khao yêu và được yêu, được nhận thức về chính bản thân mình và về tình yêu bất hủ muôn đời.
Tình yêu từ lâu vốn dĩ chứa đựng nhiều điều bí ẩn, khó lí giải. Khi yêu người ta khó phân định rõ ràng, trái tim lúc này không dễ dàng tuân theo một qui luật rõ ràng. Vì thế mà nhà thơ đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi “khi nào ta yêu nhau?” nhưng rồi cũng như sóng và gió, không thể cắt nghĩa chúng.
4.Khổ 5 và 6: Sự sóng đôi hai hình tượng em và sóng để diễn tả nỗi nhớ
-Hình tượng sóng nhớ thương bờ:
Dưới những tầng sâu của đại dương, nỗi nhớ của con sóng cuồn cuộn đến dày vò. Một khi kìm nén không nổi, sóng trào dâng lên mặt biển từng đợt ào ạt, lan rộng, sóng cứ xôn xao, thao thức, điên đảo. Như thế mới thấy nỗi nhớ bao trùm cả không gian chiếm lĩnh luôn thời gian, cuốn hút mọi tâm tư, đó chính là lúc người con gái đang bị nhấn chìm trong biển nhớ.
Qua đó thể hiện một tình yêu nồng nàn, đắm say nhưng vô cùng kín đáo.
-Cái tôi trữ tình lúc này tách ra khỏi hình tượng sống để bày tỏ, mạnh dạn nói cho cạn kiệt nỗi nhớ của mình:
Giọng thơ thì thầm, thủ thỉ, ân cần bộc bạch nỗi nhớ nhung. Không ngủ được, chợp mắt rồi lại mơ, thao thức nhớ nhung. Đó là quy luật của tình cảm tình nhiên của người đang yêu. Nỗi nhớ khắc khoải vượt ra khỏi lí trí.
Nỗi nhớ đi từ cõi ý thức sang vô thức, tiềm thức.
Qua đó thấy được tình yêu của người con gái chân thành, sâu thẳm, và duy nhất. Một tâm hồn đẹp, khi kín đáo biểu lộ lúc chân tình bày tỏ nỗi lòng nhưng vẫn mang nét nữ tính
-Nỗi nhớ dịu lại, nhân vật “em” tự soi chiếu lòng mình để nhận ra những điều mới mẻ của tình yêu.
“Nghĩ”: động từ vừa gợi sự nghĩ ngợi mà cũng là đang tơ tưởng, đây là một biểu hiện của nỗi nhớ nhẹ nhàng, sức cuốn hút của tình yêu.
Xuân Quỳnh có cách nói lạ: “xuôi về phương Bắc, ngược về phương Nam” để thấy được sự trắc trở, thử thách đến với tình yêu. Hơn nữa nổi rõ lên phẩm chất và sức mạnh của tình yêu, người con gái mang một tâm hồn trẻ, đẹp, thủy chung và son sắc
5.Còn lại: Tình yêu luôn gắn liền với những khó khăn, trắc trở như thế mới thấy khát vọng tình yêu đẹp đến thế nào.
Khó khăn, thách thức trong tình yêu chưa bao giờ khiến người con gái chùn bước, sau tất cả sóng “con nào chẳng tới bờ” thì với “em” có gian truân thế nào lòng vẫn một mực ‘hướng về anh”
Nhân vật trữ tình chìm đắm trong suy tư, ngẫm về cuộc đời, ý thức về quan hệ giữa con người với vũ trụ, thấy thời gian vô tình, đời người càng trở nên ngắn ngủi. Xuân Quỳnh thể hiện niềm tiếc, lo âu về việc nắm lấy hạnh phúc hiện tại.
Tiếp tục là sự nhận thức về thời gian một đi sẽ không trở lại, không thể tìm thấy cuộc đời lần thức hai nên nhà thơ thể hiện rõ sự nuối tiếc, nỗi buồn vươn vấn chỉ biết gửi khát vọng của mình vào đất trời vô tận.
III. Kết bài:
Ngôn ngữ thơ giản dị, nhạc thơ, âm hưởng thơ nhẹ nhàng, da diết, giàu chất suy tư, trí tuệ.
Đề tài tình yêu và bài thơ sóng luôn mang một nét riêng chỉ có ở Xuân Quỳnh…
Gợi ý cho bạn 💕 Kết Bài Sóng Của Xuân Quỳnh 💕 20 Đoạn Văn Hay Nhất
1.Mở bài:
Đề tài tình yêu trong thi ca.
Sóng của Xuân Quỳnh với những quan điểm tình yêu.
2.Thân bài:
a. Khổ thơ đầu:
Quan điểm về tình yêu của Xuân Quỳnh vừa mang tính chất truyền thống đằm thắm, thủy chung, lại cũng mang vẻ hiện đại đầy khao khát và tự do. Khuyến khích người phụ nữ chủ động, tự tin tìm kiếm cho mình một tình yêu đích thực.
Mang đến cho chúng ta những liên tưởng về những cung bậc cảm xúc trong tình yêu, đôi khi là sự nồng nhiệt, cháy bỏng, là sự rung động mạnh mẽ, sự lắng đọng, thấu hiểu giữa hai tâm hồn đồng điệu.
b. Khổ thơ thứ 2: “Ôi con sóng…bồi hồi trong ngực trẻ”
Đức tính thủy chung, son sắt trong tình yêu của người phụ nữ.
Khao khát tình yêu mãnh liệt, thể hiện quy luật muôn đời tình yêu vẫn luôn đem lại cho con người sự say mê, thôi thúc con người kiếm tìm.
c. Khổ thơ thứ 3, 4 “Trước muôn trùng…khi nào ta yêu nhau”
Sự băn khoăn muốn lý giải tình yêu, nhưng tác giả chợt nhận ra điều ấy chỉ là vô nghĩa.
Mở ra quan điểm hướng tới tình yêu bằng tất cả trái tim, sống và cống hiến hết mình cho tình yêu của mình thêm nồng nàn sâu sắc, lắng nghe từng nhịp đập của đôi tim để cảm nhận thật rõ niềm hạnh phúc quý giá lúc còn có thể.
d. Khổ thơ thứ 5, 6, 7 “Con sóng…một phương”:
Tấm lòng chung thủy, sâu sắc thể hiện qua nỗi nhớ vượt không gian và thời gian của tác giả.
Luôn hướng tới một tình yêu thủy chung, son sắt (Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh – một phương).
e. Hai khổ thơ cuối:
Hình tượng sóng là đại diện cho con người trong công cuộc tìm kiếm tình yêu, quan điểm trong tình yêu lúc nào cũng có những trắc trở, chông gai, nhưng chỉ cần người ta có hy vọng, không mất niềm tin vào tình yêu và cuộc đời, sẵn sàng vượt qua mọi chông gai thách thức thì tin rằng sóng nào cũng tới bờ, người có tình ắt hẳn sẽ về với nhau.
Xuân Quỳnh cũng nhận thức được năm tháng đang dần trôi đi mà bản thân vẫn còn chơi vơi trên bước đường hạnh phúc, thôi thúc trong tâm hồn nữ sĩ những khao khát mạnh mẽ về một tình yêu đích thực, khao khát được hòa tan vào biển lớn tình yêu vĩnh cửu, được sống hết mình một lần vì tình yêu cho khỏi uổng phí đời người.
Ước vọng có một tình yêu vĩnh hằng, bất tử để làm đẹp cho cuộc đời (Làm sao được tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ).
3.Kết bài: Nêu cảm nhận.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Bài Sóng Xuân Quỳnh 🌹 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
I. Mở bài
Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh (tiểu sử, phong cách thơ…)
Giới thiệu khát quát về bài thơ “Sóng” (hoàn cảnh ra đời, nội dung chính….)
II. Thân bài
1.Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng
Thủ pháp đối lập: dữ dội – dịu em, ồn ào – lặng lẽ → Các cung bậc, sắc thái khác nhau của sóng cũng giống như những cung bậc tình cảm phong phú, những trạng thái đối cực phức tạp, đầy nghịch lí của người phụ nữu khi yêu
Hình ảnh ẩn sụ, nhân hóa “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”: khát vọng vươn xa, thoát khỏi những gì chật chội, nhỏ hẹp, tầm thường → Quan niệm mới về tình yêu: yêu là tự nhân thức, là vươn tới cái rộng lớn, cao xa
Phép so sánh, liên tưởng “Ôi con sóng ngày xưa … Bồi hồi trong ngực trẻ”: Lời khẳng định khát vọng tình yêu cháy bỏng, mãnh liệt luôn luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ
2.Những suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu
Sử dụng dày đặc các câu hơi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?”: thể hiện mong muốn muốn tìm được cội nguồn của tình yêu, lí giải được tình yêu, khát khao hiểu được tình yêu, hiểu được bản thân mình và hiểu được người mình yêu
Câu trả lời “Em cũng không biết nữa”: Lời tự thú chân thành của người phụ nữ, đầy hồn nhiên, nữ tính. Tình yêu là bí ẩn, những trạng thái trong tình yêu luôn là những điều khó lí giải
3.Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái khi yêu
-Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu
Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu… trên mặt nước…”, “ngày đêm không ngủ được” → Nỗi nhớ da diết, sâu đậm
Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức” → Cách nói cường điệu nhưng hết sức hợp nhằm tô đậm nỗi nhớ mãnh liệt của tác giả
Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình
-Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu:
“Em”: phương Bắc phương Nam – “Hướng về anh một phương” → Lời thể thủy chung son sắt tuyệt đối
“sóng” : ngoài đại dương → “Con nào chẳng tới bờ” → quy luật tất yếu.
Lòng thủy chung là sức mạnh để tình yêu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tới với bến bờ hạnh phúc
Lời khẳng định cho cái tôi của một con người luôn vững tin ở tình yêu
4.Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt
Sự nhạy cảm và lo âu của tác giả về cuộc đời trước sự trôi chảy của thời gian “Cuộc đời tuy dài thế … Mây vẫn bay về xa”
“Làm sao” gợi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.
Khát khao của nguời phụ nữa được hòa mình vào cuộc đời, được sống trong “biển lớn tình yêu” với mooitj tình yêu trường cửu, bất diệt với thời gian
III. Kết bài
-Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
Nội dung: Bài thơ là sự cảm nhận về tình yêu từ hình tượng sóng với tất cả những sắc thái, cung bậc (nỗi nhớ, sự thủy chung, trắc trở) và cả khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu của một tâm hồn phụ nữ luôn chân thành, khát khao hạnh phúc.
Nghệ thuật: hình ảnh sóng đôi sóng và em, thể thơ năm chữ, ngogn ngữu dung dị, trong sáng…
-Cảm nhận về bài thơ: bài thơ cho chúng ta thấy rõ những cung bậc cảm xúc sâu lắng, thầm kín trong tình yêu. Đó là tiếng lòng, là nhịp chảy của những trái tim đang khao khát, rạo rực yêu thương.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Sơ Đồ Dàn Ý Sóng Chi Tiết
Gửi đến bạn 🍃 Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Sóng 🍃 15 Bài Văn Hay Nhất
I. Mở bài
Xuân Quỳnh là một nữ sĩ tài ba, nhạy cảm, luôn khát khao hạnh phúc đời thường, thơ chị luôn dạt dào tình cả, lòng trắc ẩn nhân hậu của một trái tim nữ tính.
Bài thơ Sóng là một trong những bài tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
Nổi bật trong bài thơ là hai hình tượng “sóng” và “em”, đây là hai hình tượng có tính chất song hành, lúc tách đôi nhưng lúc lại hòa nhập.
II. Thân bài
1.Bản tính và khát vọng của “sóng” và “em” (khổ 1, 2)
Sóng là một thực thể mang trong mình nhiều tính chất đối lập: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ. Ẩn sâu hình ảnh song là hình ảnh “em”, bản tính của sóng chính là tính khí của “em” trong tình yêu.
Con sóng không chấp nhận không gian “sông” chật hẹp, “không hiểu” nổi sóng nên quyết liệt “tìm ra tận bể” khoáng đạt, để là chính mình. “Em” cũng vậy, cũng khát khao tìm được tình yêu để được yêu thương và thấu hiểu, được là chính mình.
Bản chất của sóng từ “ngày xưa” đến “ngày sau” vẫn không hề thay đổi. Đó cũng chính là khát vọng muôn đời của “em”: được sống trong tình yêu bằng cả tuổi trẻ.
2.Những nỗi niềm của “em” về “sóng”, về tình yêu (khổ 3, 4)
Đối diện với “muôn trùng sóng bể”, “em” đã có những suy tư, khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu, “biển lớn” tình yêu.
“Em” băn khoăn về khởi nguồn của “sóng” rồi tự lý giải bằng quy luật của tự nhiên, nhưng rồi tự nhận thấy rằng khởi nguồn của sóng, thời điểm bắt đầu tình yêu thật bí ẩn. (Liên hệ câu thơ: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu …” trong bài Vì sao của Xuân Diệu).
3.Nỗi nhớ, lòng thủy chung của “sóng” và “em” (khổ 5, 6, 7)
“Sóng” nhớ đến bờ: nỗi nhớ bao trùm không gian (dưới lòng sâu – trên mặt nước), dằng dặc theo thời gian (ngày – đêm), nhớ đến “không ngủ được”.
“Sóng nhớ bờ” chính là “em” nhớ “anh”, nỗi nhớ của “em” cũng bao trùm không gian, thời gian, thậm chí thường trực trong tiềm thức, trong suy nghĩ “cả trong mơ còn thức” (liên hệ nỗi nhớ trong bài Thuyền và biển của Xuân Quỳnh).
Dù “xuôi về phương bắc” hay “ngược về phương nam”, trải qua sóng gió cuộc đời thì lòng “em” vẫn luôn hướng về “phương anh”. Đó là phẩm chất thủy chung son sắt của “em” trong tình yêu.
4.Khát vọng tình yêu vĩnh cửu của “em” (khổ 8, 9)
Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn bởi vậy “em” khát khao được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.
Đó cũng là khát khao của em được hiến dâng và hy sinh cho tình yêu muôn thuở.
III. Kết bài
-Nội dung:
Nêu cảm nhận về hai hình tượng: “sóng” được khám phá dựa trên sự tương đồng, hòa hợp với “em”. Hình tượng “em” vừa mang nét truyền thống (thủy chung, dịu dàng) lại vừa mang nét hiện đại (chủ động tìm tình yêu, táo bạo thể hiện nỗi nhớ, niềm lo).
Bài thơ đã diễn tả tình yêu của người phụ nữ: thiết tha, nồng nàn, thủy chung. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, hạnh phúc lớn lao của con người.
-Đặc sắc nghệ thuật
Thể thơ ngũ ngôn liền mạch
Xây dựng thành công hình tượng “sóng”
Biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, đối lập – tương phản,…
Ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị
Cách ngắt nhịp linh hoạt, phóng khoáng
Cách gieo vần, phối âm độc đáo, giàu sức liên tưởng
Giọng thơ phong phú, vừa thiết tha, đằm thắm, vừa mãnh liệt sôi nổi, vừa hồn nhiên, nữ tính
Gợi ý cho bạn 🌳 Dàn Ý Người Lái Đò Sông Đà 🌳 16 Mẫu Dàn Ý Phân Tích Hay
Mở bài
Giới thiệu nhà thơ Xuân Quỳnh
Dẫn dắt giới thiệu bài thơ Sóng.
Thân bài
a. Bốn câu thơ đầu
Tính từ trái nghĩa “dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ” thể hiện những thái cực đối lập của con sóng. Đó cũng là những tâm trạng khác nhau của người con gái trong tình yêu.
Mượn hình ảnh dòng sông không hiểu chính mình nên tìm ra biển khơi rộng lớn tìm câu trả lời để bóng gió nói về tâm tư của người con gái trong tình yêu luôn trăn trở nhiều điều và có ước muốn lớn lao là khám phá được những băn khoăn đó.
b. Khổ thơ thứ 2
Con sóng: ngàn năm vẫn thế, vẫn tính chất, đặc điểm ấy không bao giờ thay đổi.
Người con gái: khát vọng tình yêu luôn thường trực, rạo rực; bao nhiêu năm vẫn hướng về tình yêu, về người yêu.
c. Khổ thơ thứ 3
Trước biển lớn, người con gái suy tư về tình yêu của mình.
Câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” là suy nghĩ của cô gái về cội nguồn của tình yêu.
d. Khổ thơ thứ 4
Tự vấn về nguồn gốc của con sóng: sóng bắt đầu từ gió còn gió bắt đầu từ đâu thì không lí giải được.
Sự lí giải, cắt nghĩa về cội nguồn của sóng dẫn đến cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Tình yêu đầy bí ẩn không thể giải thích được cội nguồn của nó, thời điểm mà nó bắt đầu → Cách cắt nghĩa mới mẻ, phóng khoáng.
e. Khổ thơ thứ 5
Tâm trạng nhớ nhung da diết, khắc khoải của con sóng, dù con sóng ở bất cứ nơi nào vẫn chỉ nhớ về bờ, hướng về ngày ngày đêm đêm cho đến khi vào được đến bờ.
Người con gái luôn một lòng một dạ hướng về người mình yêu thương, nhấn mạnh nỗi nhớ triền miên luôn thường trực. Nỗi nhớ ấy theo họ cả vào trong mộng, sống trong giấc mơ của họ. Đó không chỉ là tấm lòng thủy chung sâu sắc của người con gái mà còn là khao khát tình yêu, được thể hiện yêu thương với người yêu của mình.
f. Khổ thơ thứ 6
“Dẫu…” lặp cấu trúc khẳng định dứt khoát nỗi nhớ và niềm tin tuyệt đối vào tình yêu.
Dù cho đi đến bất cứ nơi nào thì trong lòng người con gái ấy cũng luôn hướng về người yêu vì trong tim cô người yêu là phương hướng duy nhất dẫn lối cho cô vượt qua mọi khoảng cách, mọi khó khăn.
g. Khổ thơ thứ 7
Con sóng dù ở ngoài khơi xa thế nào, dù khó khăn thế nào cũng vẫn tìm được đến bến bờ.
Người con gái dù đa sầu đa cảm, suy tư trăn trở thế nào cuối cùng rồi cũng sẽ được hạnh phúc.
h. Khổ thơ thứ 8
Người con gái ấy còn nhiều lo lắng, trăn trở: năm tháng còn rất dài, biển kia bao la đến đâu nhưng liệu có đủ sức để giữ những đám mây ở lại bên mình mãi mãi?
Người con gái dù có yêu nhiều đến đâu, có khao khát nhiều đến đâu nhưng liệu có giữ được người yêu, được tình yêu này ở lại cùng mình và vẫn vẹn nguyên như lúc đầu?
i. Khổ thơ cuối
Khi con sóng tan ra thành những bọt nước nhỏ sẽ được ở lại với biển khơi mãi mãi, sẽ không còn những đau khổ, những lo lắng. Đó cũng là ước muốn của người con gái, khao khát được sống với tình yêu, với người mình yêu thương trọn đời trọn kiếp.
Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ: mượn nét tương đồng của con sóng để diễn tả nội tâm của người con gái trong tình yêu giúp bạn đọc dễ hình dung ra và có những liên tưởng thú vị.
Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Nêu cảm nghĩ cá nhân
Đừng bỏ qua 🔥 Dàn Ý Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 🔥 10 Mẫu Dàn Ý Phân Tích Hay
1.Mở bài
Giới thiệu về Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng ( Sóng là tiếng lòng của Xuân Quỳnh – Một người phụ nữ với tâm hồn nhạy cảm, mang bao cung bậc cảm xúc dạt dào, đắm thắm)
Dẫn dắt vào vấn đề và trích dẫn đoạn thơ trên
2.Thân bài
*Khái quát chung về:
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi biển thực tế ở Diêm Điền (Thái Bình, bài thơ được in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào.
Nội dung bài thơ: Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên sự thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người.
Cấu trúc bài thơ: Cấu trúc song hành giữa hai hình tượng sóng – em thể hiện tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình.
Nội dung đoạn thơ trên: Sóng là đối tượng để cảm nhận với những cung bậc phong phú về tâm trạng và khát vọng trong tình yêu.
*Những nội dung cần làm rõ:
-Phát hiện về những đặc tính của sóng và trạng thái trong tình yêu:
Trạng thái đối lập, đa dạng của sóng: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ cũng là tâm trạng thất thường, phức tạp của người con gái trong tình yêu.
Tình yêu chân chính không chấp nhận hiện tượng một chiều mà luôn khát khao tự khám phá nhận thức về mình.
Cũng như thuộc tính vốn có của sóng không cho phép chấp nhận không gian chật hẹp của những dòng sông mà tìm đến không gian rộng mở, khoáng đạt của biển cả.
Vì vậy trái tim của người con gái khi yêu không chấp nhận tình yêu tầm thường mà luôn kháo khát sự đồng cảm, hòa hợp, khoáng đãng, bao dung, rộng lớn…
-Sự vĩnh hằng của sóng và tình yêu:
Sự trường tồn của sóng trước thời gian (con sóng ngày xưa – ngày sau – vẫn thế)
Khát vọng về tình yêu trong trái tim tuổi trẻ cũng bất diệt như sóng, đó là khát vọng lớn lao, vĩnh hằng của tuổi trẻ, của nhân loại (Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ)
-Nghệ thuật:
Những hình ảnh tượng trưng kết hợp với những tính từ mang ý nghĩa trái ngược đã diễn tả những cung bậc cảm xúc đa dạng của sóng và tình yêu: mạnh mẽ, cuồng nhiệt, sâu lắng.
Phép nhân hóa làm hình tượng sóng trở nên có hồn và sinh động hơn.
3.Kết bài
Nêu suy nghĩ, cảm nhận về đoạn thơ trên (Đoạn thơ đã diễn tả một cách sâu sắc những cung bậc cảm xúc, nhưng trạng thái trong tình yêu. Con sóng là sự vĩnh hằng của biển khơi, còn tình yêu là khát khao muôn thuở của tuổi trẻ.)
Mở rộng vấn đề bằng cảm xúc và sự liên tưởng của cá nhân
Ngoài ra, tại chúng tôi còn có 🌺 Phân Tích Sóng Khổ 1 2 🌺 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
1.Mở bài: Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh, bài thơ Sóng và nội dung nổi bật của 2 khổ thơ 3 và 4
2.Thân bài
a. Khổ thơ thứ 3: Mong muốn khám phá những bí mật của tình yêu
Những trăn trở, nghĩ suy trong tâm trí nữ thi sĩ được gợi ra qua hàng loạt câu thơ bắt đầu với cấu trúc “em nghĩ” đầy suy tư.
Đối diện với không gian bao la, vô tận, nhà thơ bỗng nhớ đến cái mênh mang, vô hạn của tình yêu.
Tình yêu không chỉ mênh mang, vô tận, trong lòng đại dương mà nó còn chứa đựng bao bão tố, phong ba, bao bí ẩn khiến lòng người trăn trở, băn khoăn, khát khao kiếm tìm đáp án.
b. Khổ thơ thứ 4: Khát khao được khám phá, tìm kiếm cội nguồn của tình yêu
Nhà thơ sử dụng một loạt câu hỏi tu từ, dập dờn theo nhịp điệu của sóng
Nương theo con sóng đại dương, bà bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu, đồng thời lý giải bản chất của nó.
“Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau” vừa giống như câu trả lời đầy nũng nịu, lại như lời thú nhận về kết quả khám phá cội nguồn tình yêu.
Tình yêu vốn là tình cảm ẩn sâu trong trái tim con người, nó trừu tượng, huyền diệu chỉ có thể cảm nhận chứ không thể giải thích rõ nguồn cội, cũng chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng.
c. Đánh giá nghệ thuật
Hình ảnh gợi cảm đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc cùng những câu hỏi tu từ dồn dập.
Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng tạo âm hưởng dào dạt. Nhịp thơ khi nhẹ nhàng, khi da diết.
Qua đó, nhà thơ đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như khát vọng tình yêu thủy chung, tốt đẹp.
3.Kết bài
Khẳng định lại giá trị 2 khổ thơ và tài năng nữ thi sĩ Xuân Quỳnh
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Cảm Nhận Khổ 3 Và 4 Bài Sóng 🌹 10 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
I. Mở bài:
Xuân Quỳnh là nữ thi sĩ nổi bật trong thời kì kháng chiến chống Mĩ
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một người phụ nữ luôn da diết về tình yêu và khát vọng hạnh phúc, được mệnh danh là “bà hoàng của thơ tình.
Sóng là một trong những bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, được sáng tác năm 1967
II. Thân bài:
– Cảm nhận về khổ 1 2 của bài thơ Sóng: khát vọng tình yêu
Dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ là các trạng thái của sóng nhưng cũng chính là tiếng lòng của người con gái đang yêu
Con sóng khao khát tình yêu và chủ động “tìm ra tận bể”
Con sóng ngày xưa và ngày sau vẫn luôn nồng cháy khao khát tình yêu
Sóng là sự hóa thân của cái tôi trữ tình, sóng và em, tuy hai mà một
– Cảm nhận khổ 3 4 bài thơ Sóng: nỗi băn khoăn của tình yêu
Điệp từ nghĩ: thể hiện sự băn khoăn trăn trở
Xuất hiện 2 câu hỏi tu từ càng tô thêm vẻ hoài nghi
Cái tôi trữ tình đi tìm sự bắt nguồn của tình yêu nhưng vẫn không thể biết được “khi nào ta yêu nhau”
III. Kết bài:
4 khổ đầu bài thơ Sóng là sự khoắc khoải về tình yêu của người phụ nữ thiết tha, say đắm và chung thủy, khao khát về một tình yêu cháy bỏng nhưng mang nhiều trăng trở và đang mơ hồ đi tìm câu trả lời cho tình yêu
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Cảm Nhận 4 Khổ Đầu Bài Sóng 🌼 10 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
1.Mở bài:
Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm: Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ với hồn thơ rất đỗi trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính. Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.
Khái quát nội dung khổ 3 và 4, 5: hình tượng sóng đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.
2.Thân bài:
-Khái quát về hình tượng “sóng”
Hình tượng trung tâm và nổi trội trong bài thơ là hình tượng “sóng”, bao trùm cả bài thơ là hình tượng sóng.
Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả.
“Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình.
Với hình tượng sóng, có thể nói Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiện thật xác đáng tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu.
Hình tượng sóng đã gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên man, vô tận. Âm hưởng ấy được tạo dựng nên bởi thể thơ năm chữ, với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần (“Khi nào ta yêu nhau”… “Con sóng dưới lòng sâu”).
Nhịp sóng đó cũng chính là nhịp lòng của tác giả, một tâm trạng đang xao động, trào dâng, miên man và chất chứa những khát khao, rạo rực.
-Đoạn thơ là một khám phá về sóng, mỗi khổ thơ sóng lại hiện ra một ý nghĩa khác
3.Kết bài:
Khái quát lại nội dung 3 khổ thơ.
Cảm nhận của em: Tình yêu luôn luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người, mỗi chúng ta ai cũng có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng 🍀 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
I. Mở bài
Sóng của Xuân Quỳnh là bài thơ hay về đề tài tình yêu đôi lứa, nỗi nhớ da diết và chung thủy một lòng trong tình yêu thể hiện rất đậm nét trong khổ 5 6 7 của bài thơ. Khổ 5 6 7 cũng là đoạn hay và đặc sắc nhất trong bài thơ Sóng.
II. Thân bài
*Nỗi nhớ nhung da diết trong tình yêu
*Sự thủy chung trong tình yêu
Con sóng dù có xuôi về phương Bắc hay phương Nam cách xa, trắc trở về địa lý nhưng có điểm chung đều hướng vào bờ.
Hình ảnh sóng vỗ vào bờ tựa như người con gái vượt qua nhiều khó khăn, trắc trở để hướng đến tình yêu, một lòng thủy chung sắc son.
Thủy chung là đức tính quý báu của người con gái Việt Nam và nhà thơ Xuân Quỳnh nguyện một lòng chung thủy suốt đời.
Chính sự thủy chung sẽ giúp người con gái vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để đến với tình yêu đích thực.
*Tình yêu sẽ chiến thắng mọi thử thách
*Khổ 7 như một lời khẳng định tình yêu đích thực có thể vượt qua mọi khó khăn, rào cản.
Đại dương mênh mông có biết bao con sóng nhưng chúng đều sẽ hướng vào bờ.
Sức mạnh, niềm tin của tình yêu sẽ giúp con người hạnh phúc.
Tác giả ca ngợi tình yêu đẹp và sức mạnh vượt qua mọi thử thách.
Con người sẽ hạnh phúc trong tình yêu như những con sóng ngoài đại dương chắc chắn sẽ vào bờ.
*Cả 3 khổ thơ tác giả sử dụng con sóng là hình ảnh ẩn dụ của người con gái trong tình yêu. Kết hợp các biện pháp tu từ, sự đối lập tạo nên thành công của bài thơ Sóng đặc biệt trong khổ 5 6 7.
III. Kết bài
Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh luôn là bài thơ hay về tình yêu được rất nhiều thế hệ trẻ yêu thích.
Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Khổ 5 6 Bài Sóng 🌠 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Xuân Quỳnh, bài thơ Sóng: Xuân Quỳnh là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là chùm thơ viết về tình yêu. Trong đó bạn đọc yêu thơ chị chắc chắn sẽ biết đến bài thơ “Sóng”.
Dẫn dắt giới thiệu nội dung cần phân tích: Khi nói về nét truyền thống của người con gái trong tình yêu, khổ thơ năm, sáu và bảy đã làm tròn nhiệm vụ của mình.
II. Thân bài
Khổ 5: Nỗi nhớ trong tình yêu
Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu.
Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu… trên mặt nước…”, “ngày đêm không ngủ được”.
Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”.
Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình.
Cách nói cường điệu nhưng hết sức hợp nhằm tô đậm nỗi nhớ mãnh liệt của tác giả.
Khổ 6: Sự thủy chung trong tình yêu
Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu
“Dẫu xuôi về phương Bắc/Dẫu ngược về phương Nam”: ngược với cách nói thông thương.
“Nơi nào em cũng nghĩ/Hướng về anh – một phương”: Khẳng định lòng thủy chung son sắc trong tình yêu.
Lời khẳng định cho cái tôi của một con người luôn vững tin ở tình yêu.
Khổ 7: Niềm tin sâu sắc trong tình yêu
Khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở”. Ở ngoài đại dương xa xôi đó, có trăm ngàn con sóng vỗ. Nhưng cuối cùng, con sóng nào cũng tìm được đến bến bờ của mình.
Cũng giống như “em” và “anh, dù cuộc đời phải trải qua muôn ngàn sóng gió, có đôi lúc phải cách xa nhau. Thì đến cuối cùng, “em” và “anh” vẫn sẽ gặp lại nhau. Và tình cảm của đôi ta sẽ mãi mãi tồn tại.
Khổ thơ thứ bảy không chỉ là một lời khẳng định niềm tin cho tình yêu. Mà đó cũng là một lời an ủi, động viên những người đang yêu nhau, hãy có thêm sức mạnh để vượt qua muôn ngàn “cách trở”, tìm về với bến bờ hạnh phúc.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của khổ thơ 5, 6 và 7
Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận Về Khổ 5 6 7 Bài Sóng 🌳 12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
1.Mở bài:
Nữ sĩ Xuân Quỳnh dành cho tình yêu một khoảng trời yêu thương lớn lao, để khi viết về nó, mỗi chữ, mỗi lời từ cây bút ấy đều khiến người đọc rung động, và “Sóng” là một bài thơ như thế.
2.Thân bài:
Thời gian vẫn vậy, vẫn luôn khiến lòng người khắc khoải một nỗi lo, một nỗi sợ vấn vương.
Cuộc đời tuy có dài, có rộng đó thôi, nhưng làm sao dài rộng như thời gian cơ chứ.
Biển có rộng, có dạt dào sự bao dung, có ngày đêm vỗ sóng đợi chờ tình yêu thì mây kia vẫn bay đi, bay về những chân trời xa lắm, nơi đó chắc gì đã có biển, đã có sóng, có ” em”.
Tác giả lo âu, nghĩ suy nhưng không vì thế mà ngừng yêu, ngừng nhớ. Trái tim vẫn đập mãnh liệt khi yêu và được yêu, vẫn muốn sống hết mình cho tình yêu của hôm nay, của hiện tại.
Tác giả ước làm sao để có thể tan thành từng con sóng, từng con sóng ngày đêm vỗ về hạnh phúc tình yêu.
Bởi thế mà trăm con sóng ngày đêm vỗ về nơi biển lớn của tình yêu ấy là trăm con sóng lòng xốn xang, dâng trào.
3.Kết bài:
Qua bài thơ, Xuân Quỳnh đã nói lên tâm sự của bao người trong đó, đặc biệt là những thế hệ trẻ hôm nay.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Cuối Bài Sóng ☀️ 15 Bài Văn Hay Nhất
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Của Nguyễn Trãi Dàn Ý &Amp; 17 Bài Văn Mẫu Lớp 10 Hay Nhất trên website Vxsc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!