Bạn đang xem bài viết 6 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật Cai Lệ Trong Đoạn Trích “Tức Nước Vỡ Bờ” Của Ngô Tất Tố được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Vxsc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Ngô Tất Tố (1893- 1954) là nhà văn xuất sắc của trào lưu văn học trước Cách mạng, thơ ông mang đậm dấu ấn hiện thực, ông thường viết cuộc sống người nông dân trong xã hội phong kiến, ở đó luôn có sự bế tắc không lối thoát. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích từ chương XVIII của tiểu thuyết “Tắt đèn” – tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố. Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã vạch rõ bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đương thời đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng khốn khổ, bế tắc, khiến họ phải liều mạng cự lại. Cai lệ là hình nhân tiêu biểu cho tầng lớp thống trị đen tối xấu xa, tham lam vắt kiệt từng hơi thở nguồn sống cỏn con của những con người vô tội bất hạnh. Ngô Tất Tố đã xây dựng khéo léo thành công nhân vật phản diện cai lệ để nhằm nổi bật nội dung tư tưởng của của đoạn trích. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích nhân vaath cai lệ đã được chúng mình tổng hợp trong bài viết sau đây.
Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 6Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một tác phẩm hết sức đặc sắc. Tác phẩm thể hiện rõ cách nhìn con người trên bình diện giai cấp. Trước hết là cách nhìn của tác phẩm đối với bọn tay sai của chế độ thực dân phong kiến đương thời. Đó chính là những tên cai lệ lang dạ sói, vừa độc ác vừa hống hách, cậy quyền để ức hiếp những người dân lành yếu đuối.
Tên cai lệ là tên đứng đầu bọn lính ở huyện đường chuyên đi đòi sưu thuế, đây là một tên độc ác chỉ làm những điều sai trái. Hắn là tiêu biểu nhất của hạng tay sai, công cụ đắc lực của cái trật tự xã hội ấy.
Đến nhà chị Dậu, tên cai lệ dở ra những trò hợm hĩnh, nào là gõ đầu roi xuống đất, trợn ngược hai mắt quát chị Dậu, thét bằng giọng khan khan và còn tát vòa mặt chị Dậu. Ngay trong cách xưng hô, tên cai lệ đã thể hiện sự hống hách, ngang ngược, không sợ ai của mình, gọi anh Dậu là thằng, xưng ông, gọi chị Dậu là mày, xưng ông, cha.
Khi đến nhà chị Dậu hắn đã đập roi xuống bàn quát: Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!”. Anh Dậu vừa chết đi sống lại, hắn đâu thèm có để ý.. Chính tay hắn hôm trước đã trói gô anh rất chặt, rồi điệu ra đình cùm kẹp giữa lúc anh đang ốm nặng. Vậy mà, giờ đây, trước những lời van xin của chị Dậu mong hắn tha cho anh, hắn đáp lại bằng thái độ hết sức phũ phàng. Hành động không giống người đó đã khắc sâu vào trong lòng người đọc một chế độ độc ác mất hết nhân tính, anh Dậu mới ốm dậy nhưng bọn chúng cũng không tha.
Cách miêu tả của tác giả: rất chân thực, sinh động bằng những nét sắc sảo, linh hoạt. Vì vậy mà chân dung nhân vật được thể hiện đúng với tính cách của họ.Qua đó, cũng thể hiện thái độ căm ghét, khinh bỉ của tác giả với giai cấp thống trị. Đồng thời phê phán cho những tên cai lệ – người chỉ là một công cụ cho người khác sai khiến và điều khiển.
Vì suất sưu của anh Dậu mà chị Dậu phải bán chó, bán con, phải chịu đựng những lời rủa sả cay độc của vợ chồng Nghị Quế và cũng từng phải nếm cả những đòn roi của bọn lính và người nhà lí trưởng. Cũng vì suất sưu ấy mà anh Dậu bị đánh, bị trói giữa lúc ốm đau. Sự bất nhân, tàn nhẫn ấy còn thể hiện ở chỗ chẳng những đánh thuế vào người sống, mà còn dựng cả người chết lên để đánh thuế. Cho nên, nộp xong suất sưu của anh Dậu.
Chị Dậu những tưởng đã trả được món nợ nhà nước, nào ngờ, bọn hào lí cho biết số tiền vừa nộp ấy chỉ mới tính vào suất của chú Hợi đã chết từ năm ngoái, tiền thuế đinh của anh Dậu vẫn còn phải..nợ! Thế là chị Dậu bị đẩy tới chỗ cùng đường. Anh Dậu tiếp tục bị đánh, bị trói cho đến ngất xỉu. Nửa đêm, người ta vác anh Dậu rũ rượi như một cái xác trả về cho chị Dậu. Nhờ có hàng xóm đổ đến giúp, chị Dậu đã cứu sống được chồng.
Nhưng trời vừa sáng, bộ mặt cai lệ và người nhà lí trưởng lại hiện ra .Sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng. Giữa túp lều tồi tàn như nơi chứa phân tro có một người đàn ông vừa thoát chết, một người đàn bà nuôi con mọn với ba đứa trẻ. Thình lình cai lệ và người nhà lí trưởng xuất hiện, đằng đằng sát khí, sầm sập tiến vào. Tay chúng cầm roi song, tay thước, dây thừng. Với thái độ ra oai, cai lệ gõ đầu roi xuống đất rất hách dịch, gọi anh Dậu là thằng, chị Dậu là mày, xưng ông, xưng cha mày.
Cai lệ mở mồm la thét, quát tháo: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?” Tên người nhà lí trưởng thì mỉa mai tên cai lệ để tên này càng hung tợn hơn: “Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa!” .Anh Dậu đang ốm đau lại bị trói đến ngất xỉu đi, vậy mà họ chẳng hề động tâm. Vừa thấy anh run rẩy cất bát cháo, cai lệ rủa sả: “Ông tưởng mày chét đêm qua, còn sống đấy à?” Anh Dậu sợ lăn ra phản, người nhà lí trưởng còn mỉa mai cười: “Anh ta lại sắp phải gió như đêm hôm qua đấy”.
Cả hai tên bất nhân không để ý đến lời van xin tha thiết của người đàn bà khốn khổ ấy. Hắn không để chị nói hết câu mà chỉ giục: “Nộp tiền sưu! Mau. Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thi ông sẽ dỡ cả nhà mày đi”. Hắn càng hung hăng, sai người nhà lí trưởng trói anh Dậu. Người nhà lí trưởng còn không dám hành hạ một người đang ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì.
Ấy thế mà hắn dám đùng đùng giật phắt cái thừng, chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch, tát vào mặt chị một cái đánh đốp chân dung của cai lệ và người nhà lí trưởng được khắc họa bằng những chi tiết điệu bộ, giọng nói và hành vi. Không hề có chi tiết nào về suy nghĩ của chúng. Chúng chỉ biết đánh trói, hành hạ người, không có trút lòng trắc ẩn nào của con người cả. Đó là bản chất bất nhân của bọn đầy tớ tay sai.
Tóm lại, chân dung của bọn tay sai chế độ thực dán phong kiến thực chất là bọn mặt người dạ thú,đây chính là nhân vật chị Dậu đến tình trạng “tức nước vỡ bờ”.
Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 5Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 6
Tắt đèn với chương Tức nước vỡ bờ là đỉnh cao của mối xung đột ấy, thể hiện rõ cách nhìn con người trên bình diện giai cấp. Trước hết là cách nhìn của tác phẩm đối với bọn tay sai của chế độ thực dân phong kiến đương thời.. Đó là bọn người tàn ác, bất nhân, coi mạng người dân như cỏ rác.
Thực vậy, tính chất tàn ác bất nhân ấy được thể hiện trước hết ở việc dồn người dân vốn đã lâm vào hoàn cảnh khốn khố đến đường cùng. Tức nước vỡ bờ là chương truyện có kịch tính rất cao. Mười bảy chương trước đã thuật lại không biết bao nhiêu là cảnh cùng cực, khốn đốn của vợ chồng chị Dậu trong những ngày sưu thuế. Nhà nghèo lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh, đến vụ thuế, anh Dậu lại bị ốm liệt giường. Cho nên, vì suất sưu của anh Dậu mà chị Dậu phải bán chó, bán con, phải chịu đựng những lời rủa sả cay độc của vợ chồng Nghị Quế và cũng từng phải nếm cả những đòn roi của bọn lính và người nhà lí trưởng.
Cũng vì suất sưu ấy mà anh Dậu bị đánh, bị trói giữa lúc ốm đau. Sự bất nhân, tàn nhẫn ấy còn thể hiện ở chỗ chẳng những đánh thuế vào người sống, mà còn dựng cả người chết lên để đánh thuế. Cho nên, nộp xong suất sưu của anh Dậu. Chị Dậu những tưởng đã trả được món nợ nhà nước, nào ngờ, bọn hào lí cho biết số tiền vừa nộp ấy chỉ mới tính vào suất của chú Hợi đã chết từ năm ngoái, tiền thuế đinh của anh Dậu vẫn còn phải..nợ! Thế là chị Dậu bị đẩy tới chỗ cùng đường.
Anh Dậu tiếp tục bị đánh, bị trói cho đến ngất xỉu. Nửa đêm, người ta vác anh Dậu rũ rượi như một cái xác trả về cho chị Dậu. Nhờ có hàng xóm đổ đến giúp, chị Dậu đã cứu sống được chồng.Nhưng trời vừa sáng, bộ mặt cai lệ và người nhà lí trưởng lại hiện ra .Sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng. Tính mạng của anh Dậu bị đe dọa nghiêm trọng. Thế là, “tức nước vỡ bờ”, chị Dậu đã vùng lên chống trả một cách quyết liệt. Đặt nhân vật vào tình huống đầy kịch tính ấy, tác giả đã phơi bày thành công bộ mặt tàn ác, bất nhân của lũ tôi tớ, tay sai dưới chế độ thực dân phong kiến thời đó. Cai lệ có lính tráng trong tay để sai bảo.
Nhưng cai lệ chưa phải là quan. Đó là một chức hạng bét của chế độ đương thời, một loại cánh tay nối dài của quan phủ quan huyện ngày xưa. Người nhà lí trưởng tất nhiên không có chức quyền gì. Ý chính là đầy tớ của bọn hào lí trong làng. Thậm chí, y có thể là một người nghèo. Có lần chị Dậu năn nỉ hắn: “Bạn nghèo với nhau, bác nói khèo với ông lí cho tôi”, nhưng hắn đã hầm hầm vác gậy bỏ đi và thô lỗ: “Tôi không dám bạn với nhà chị”. Cai lệ và người nhà lí trưởng tuy địa vị có khác nhau nhưng sự tàn ác bất nhân thì không ai kém ai.
Chân dung của chúng đã được nhà văn khắc họa khá sắc sảo. Giữa túp lều tồi tàn như nơi chứa phân tro có một người đàn ông vừa thoát chết, một người đàn bà nuôi con mọn với ba đứa trẻ. Thình lình cai lệ và người nhà lí trưởng xuất hiện, đằng đằng sát khí, sầm sập tiến vào. Tay chúng cầm roi song, tay thước, dây thừng. Đó là những dụng cụ đánh người. Với thái độ ra oai, cai lệ gõ đầu roi xuống đất rất hách dịch, gọi anh Dậu là thằng, chị Dậu là mày, xưng ông, xưng cha mày. Cai lệ mở mồm la thét, quát tháo: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?”
Bên cạnh giọng thét, giọng quát còn có giọng hầm hè và trợn hai mắt. Thật là bộ mặt của hung thần! Tên người nhà lí trưởng thì mỉa mai tên cai lệ để tên này càng hung tợn hơn: “Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa!” .Anh Dậu đang ốm đau lại bị trói đến ngất xỉu đi, vậy mà họ chẳng hề động tâm. Vừa thấy anh run rẩy cất bát cháo, cai lệ rủa sả: “Ông tưởng mày chét đêm qua, còn sống đấy à?” Anh Dậu sợ lăn ra phản, người nhà lí trưởng còn mỉa mai cười: “Anh ta lại sắp phải gió như đêm hôm qua đấy”.
Cả hai tên bất nhân không để ý đến lời van xin tha thiết của người đàn bà khốn khổ ấy. Hắn không để chị nói hết câu mà chỉ giục: “Nộp tiền sưu! Mau. Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thi ông sẽ dỡ cả nhà mày đi”. Hắn càng hung hăng, sai người nhà lí trưởng trói anh Dậu. Người nhà lí trưởng còn không dám hành hạ một người đang ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì. Ấy thế mà hắn dám đùng đùng giật phắt cái thừng, chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch, tát vào mặt chị một cái đánh đốp chân dung của cai lệ và người nhà lí trưởng được khắc họa bằng những chi tiết điệu bộ, giọng nói và hành vi. Không hề có chi tiết nào về suy nghĩ của chúng.
Đó là sự sắc sảo của ngòi bút Ngô Tất Tố. Chúng chỉ biết đánh trói, hành hạ người như một cái máy vô tri. Chúng làm gì có lòng trắc ẩn của con người. Đó là bản chất bất nhân của bọn đầy tớ tay sai.Tóm lại, chân dung của bọn tay sai chế độ thực dán phong kiến thực chất là bọn mặt người dạ thú. Tiếng của chúng chỉ là âm thanh hằm hè, quát, thét. Đầu óc chúng không biết nghĩ suy, trái tim chúng không hề rung động! Hung dữ và thô bạo như vậy, chúng tạo được tình huống kịch tính căng thẳng cho mạch truyện, đây nhân vật chị Dậu đến tình trạng “tức nước vỡ bờ”.
Thật là những chân dung được khắc họa bằng cái nhìn tinh tế và ngòi bút sắc sảo bậc thầy của nhà văn Ngô Tất Tố.
Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 5
Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 4Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 5
Tác phẩm “Tắt đèn” với đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” thể hiện đỉnh cao của sự mâu thuẫn giai cấp, thể hiện rõ cách nhìn của những con người ở giai cấp khác nhau. Trước hết là cách nhìn của tác phẩm vào bọn tay sai, của thế độ phong kiến nửa thực dân.
Nhân vật cai lệ là người đại diện cho tầng lớp người tay sai, tàn ác bất nhân, luôn chà đạp lên số phận của người nông dân, coi mạng người như cỏ rác. Chúng ra sức bóc lột người dân xô đẩy người nông dân tới cảnh đường cùng, không có lối thoát tới mức phải vùng lên đấu tranh “Tức nước vỡ bờ”.
Cai lệ thể hiện bản chất tàn ác, tàn nhẫn, bất nhân ấy thể hiện ở việc dồn người dân vào con đường khốn khổ, tới mức không lối thoát, bước tới đường cùng. Trích đoạn “Tức nước vỡ bờ” thể hiện kịch tính của đoạn trích vô cùng sâu sắc. Mở đầu đoạn trích chính là những tiếng trống thu thuế, bối cảnh chính là vào mùa thu thuế, khốn đốn của vợ chồng gia đình chị Dậu, gia đình nghèo khó, nhưng lại nợ xuất thuế thân của người hạng cùng đinh, nghèo khổ nhất làng, đông con, nghèo sơ nghèo xác.
Trong cảnh thu thuế chị Dậu vì muốn có tiền đóng thuế cho chồng, bán chó, rồi bán con, rồi bán hết cả đồ đạc trong gia đình chỉ đủ một xuất thuế của chồng. Những lời nói cay đắng của Nghị Quế khiến cho người đọc cảm thấy nhói lòng. Anh Dậu sau những ngày bị trói ở đình làng vì thiếu tiền đóng thuế, người ốm chỉ còn da bọc xương, nhưng sau khi chị Dậu đóng được xuất sưu thuế thì anh Dậu được thả về.
Chị Dậu vét hết gạo trong nhà nấu cho chồng một bát cháo loãng. Nhưng khi anh Dậu chỉ kịp cầm bát cháo lên thì tên lính cai lệ bước vào cùng với những đòn roi, định trói anh Dậu bắt đi, bởi nhà chị Dậu vẫn thiếu một xuất thuế của em trai anh Dậu đã chết hồi tháng giêng, nhưng vẫn phải đóng thuế.
Sự tàn nhẫn của những tên cai trị còn thể hiện ở việc bọn chúng không chỉ ăn tiền bóc xương tủy của người sống mà còn ăn tiền của người chết. Cho nên, khi gia đình anh Dậu còn thiếu một suất sưu thuế của ông em chú, em trai anh Dậu đã mất rồi nhưng vẫn không chịu buông tha cho gia đình anh Dậu.
Tên cai lệ có lính trang dưới quyền trong tay dù chưa làm quan nhưng hắn vẫn thể hiện mình người có chức tước bóc lột người dân. Đó chức tước của hắn vô cùng nhỏ bé nhưng khi là tay sai quan phủ huyện ngày xưa, nhưng vì dựa bóng quan nên chúng cũng tỏ ra hống hách, quyền uy.
Mặc dù chị Dậu đã nhún nhường nhã nhã thể hiện sự nhịn nhục của mình. Nhà cháu xin ông, ông tha cho. Thể hiện sự nhún nhường của một người tầng lớp dưới. Nhưng tên cai lệ vẫn không tha cho chị, chúng vẫn tiến tới lăm lăm dây định trói tiến tới chỗ anh Dậu định trói anh đưa đi.
Cai lệ tuy là người của Lý Trưởng tuy hắn cho chút địa vị, sự tàn ác của hắn không ai sánh kịp, thể hiện sự bóc lột tàn nhẫn của người tầng lớp bóc lột. Tác giả Ngô Tất Tố đã khắc họa chân dung của cai lệ vô cùng sắc sảo. Tên cai lệ hung hăng, sai người nhà lý trưởng để tìm cách trói anh Dậu, mặc dù anh Dậu đang ốm, nhưng hắn vẫn thể hiện sự tàn nhẫn của mình trước số phận của một người nghèo khổ đáng thương. Hắn đùng dùng giật phắt cái thừng chạy sầm sập vào chỗ anh Dậu rồi hắn đánh cho chị Dậu mấy bịch thể hiện sự tàn nhẫn của mình.
Rồi hắn tát vào mặt của chị mấy cái đánh “đốp” tố cáo chân dung của một tên cai lệ và nhà lý trong được khắc họa chi tiết, sâu sắc thể hiện qua điệu bộ hành vi, của tên cai lệ. Thông qua sự sắc, tinh tế của ngòi bút của Ngô Tất Tố chúng ta có thể thấy được, sự tinh tế của tác giả trước hoàn cảnh khó khăn của người nông dân. Những tên cai lệ làm gì có lòng thương người, có lòng trắc ẩn, đó chính là bản chất bất nhân của bọn tay sai của giặc.
Chân dung của tên cai lệ chính là đại diện của chế độ luôn tìm cách bóc lột người dân lao động khốn khổ, mặt người dạ thú tìm cách bóc lột người dân tới tận xương tủy, khiến người dân chúng ta vô cùng khốn khổ bị xô đẩy không lối thoát. Nhưng trước cảnh khốn khổ của người dân của quê hương những tên tay sai cũng không thương tiếc, chà đạp tới lên số phận của người dân cùng chủng tộc của mình.
Tên cai lệ hung dữ và độc ác thô bạo như vậy, tác giả Ngô Tất Tố đã tạo tình huống kịch tính căng thẳng trước cuộc đấu đầu trước tên cai lệ và chị Dậu trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”Thông qua đoạn trích tác giả đã khắc họa chân dung của tên cai lệ bằng ngòi bút sắc sảo, tinh tế sâu sắc thể hiện bức tranh mâu thuẫn xã hội phong kiến.
Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 3Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 4
Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn trích Tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố đã vạch trần bộ mặt ác nhân của thực dân phong kiến đương thời, dẫm xéo lên tội ác, sự bất công của xã hội kim tiền ghê tởm. Đã đẩy người nông dân vào tình cảnh đáng thương đường cùng tiêu biểu đó là chị Dậu. Và cai lệ đã trở thành biểu tượng của tầng lớp cầm quyền thời bấy giờ.
Ngay từ lúc bắt đầu tác phẩm dù chưa nhắc đến bóng dáng cai lệ ta vẫn có thể cảm nhận được sự độc ác của hắn đến nhường nào khi thấy tình cảnh anh Dậu kiệt quệ sức lực lẫn tinh thần. Sau khi chị Dậu nấu cháo xong, chưa kịp chạm lưỡi thì cai lệ sầm sập đến: roi song, tay thước,…
Một thái độ hung hãn, hành động ngông cuồng không hề giống những người thu thuế bình thường, không mang sách bút ghi chép lại là những vũ khí thường xuyên chà đạp lên thân thể con người, nhuốm máu, mồ hôi người nông dân nghèo khổ. Rồi quát lớn, thúc tiền sưu trong khi gia cảnh nhà chị Dậu khốn cùng đến nỗi phải bán đứa con đầu lòng và ổ chó chưa mở mắt.
Bản chất hống hách, hách dịch, kiêu ngạo được Ngô Tất Tố bóc trần. Chị Dậu dù rất lễ phép, xưng cháu ông nhưng cai lệ “trợn ngược hai mắt” vô lương tâm mà chửi mắng, sỉ vả chị. Sự thiếu học, vô đạo đức được thể hiện rõ ràng trên con người này.
Mặc cho sự đau ốm của anh Dậu, cai lệ bắt tên người nhà lí trưởng trói về. Đối với một tên hầu lí vẫn có chút sợ hãi không dám làm nhưng tên cai “giật phắt cái dây thừng”, “chạy sầm sập” trói anh Dậu. Sự vô nhân đạo, lòng lang dạ thú được bóc mẽ từ đây.
Cai lệ là tên vô cùng hèn hạ. Ngay cả phụ nữ cũng dám ra tay “bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch”, “tát vào mặt”. Dù có là tay sai cho bọn lí, dù là trong xã hội bất công này tên cai ấy cũng chỉ là một con người bình thường, xuất thân cũng từ người nông dân nghèo khổ. Bởi vì đâu mà hắn mất hết tính người, đạo đức cơ bản đối nhân xử thế rồi trở nên tay khát máu tàn bạo không khác gì bọn súc sinh cầm thú.
Cai lệ là hình nhân tiêu biểu cho tầng lớp thống trị đen tối xấu xa, tham lam vắt kiệt từng hơi thở nguồn sống cỏn con của những con người vô tội bất hạnh. Ngô Tất Tố đã xây dựng khéo léo thành công nhân vật phản diện cai lệ để nhằm nổi bật nội dung tư tưởng của của đoạn trích.
Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 2Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 3
Trong xã hội phong kiến xưa, người dân nghèo là lớp người chịu đủ mọi áp bức bóc lột, khổ ải, mà những kẻ gây ra sự khổ đau ấy chính là những là những tên quan lại, tay sai từ lớn đến nhỏ. Trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, nhân vật cai lệ, một tên tay sai đại diện cho tầng lớp bóc lột đã bộc lộ hết sự hèn hạ, đáng ghét của mình.
Hình ảnh đầu tiên mà hắn xuất hiện là cùng với roi da, tay thước, dây thừng và “thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ”. Ấn tượng của người đọc về nhân vật này đầu tiên chính là một tên nghiện xái, thô lỗ và phách lối. Anh Dậu mới từ hôm qua về còn đang ốm nặng nằm liệt dường hắn cũng trông thấy mà còn thét lớn bắt anh nộp tiền hết sưu hết sức vô nhân đạo. Khi chị Dậu run run xin cho chồng, cai lệ lại càng phách lối vô cảm khi chị chưa nói hết câu đã trợn ngược hai mắt mà quát lớn bằng từ ngữ vô cùng tục tĩu, xúc phạm:
– Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà mở mồm xin khất!
Ta có thể thấy cai lệ không phải chỉ là một tên thô lỗ, vô nhân đạo mà còn là tên tay sai tục tĩu, vô văn hóa. Tuy cai lệ chỉ là một tên tay sai của lí trưởng nhưng cũng tính là một chức quan nhỏ, là đại diện của pháp luật, của nhà nước, vậy mà hắn xuất hiện với tất cả sự vô lương, vô văn hóa, thô lỗ,… và hắn còn là một con người tàn bạo khi hắn “bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi xấn xổ đến bắt anh Dậu”. Chị Dậu là phụ nữ, chân yếu tay mềm vậy mà hắn không nương tay đã đánh, còn tát vào mặt chị, còn xấn xổ trong tư thế bạo tàn đến để trói anh Dậu trong khi anh còn đang ốm liệt giường. Chân dung cai lệ hiện lên thật tàn bạo, xấu xa, độc ác y như một tên bạo chúa đáng ghê tởm. Nhưng nếu ở đoạn này, cai lệ làm cho ta thấy ghét thì ở đoạn sau, hắn còn làm cho ta thấy khinh bỉ vì sự đê hèn của mình.
Khi hắn không niệm tình anh Dậu bị ốm vẫn nhảy vào cạnh anh để trói mang đi thì chị Dậu đã không thể nhịn được, nhìn chồng bị hành hạ, chị tức đến sôi máu, quyết không để cho cai lệ đem chồng chị đi. Chị nghiến hai hàm răng rồi “túm lấy cổ hắn ấn dúi ra cửa”. Những tưởng cai lệ- một tên đàn ông có chức có quyền sao có thể để một người phụ nữ chân yếu tay mềm dễ dàng khuất phục nhưng quả là “sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”.
Những từ ngữ như “lẻo khoẻo”, “ngã chỏng quèo” đã phần nào giúp ta hình dung về chân dung méo mó đê tiện của cai lệ trong trận đấu với chị Dậu. Cai lệ rõ ràng là một tên yếu đuối, chỉ dám phách lối nhờ quyền hạn để đàn áp người dân còn bên trong thực chất chẳng có gì. Đây cũng chính là chân dung méo mó của gần như tất cả những quan sai bóc lột nói chung. Tất cả chúng đều tàn bạo, vô lương, phác lối, vô văn hóa nhưng lại vô cùng hèn kém và đáng khinh khi.
Bạo tàn, vô văn hóa, vô nhân tính là tất cả những từ ngữ có thể dùng để miêu tả tên cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”. Đọc đoạn trích người đọc không chỉ thấy tên này đáng ghét mà còn rất đáng khinh bỉ đồng thời hả hê biết bao khi hắn chịu sự chừng phạt từ phía chị Dậu.
Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 2
Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 1Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 2
Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích trong tác phẩm Tắt Đèn, một tác phẩm nổi tiếng của Ngô Tất Tố. Đoạn trích xoay quanh nhân vật chị Dậu và việc thu thuế. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm như tên của đoạn trích, nhân vật Cai Lệ xuất hiện, một kẻ đi thúc sưu những người dân nghèo.
Trong bối cảnh của thế kỉ XX nước ta đang bị Pháp đô hộ, người dân sống trong cảnh lầm than, ai oán và đói rét, họ không có đủ miếng ăn đến nỗi phải ăn cháo cám để cầm cự qua ngày, không những vậy, họ còn bị chòng cổ bởi đủ thứ sưu cao thuế nặng, phải chịu bao áp bức của giai cấp thống trị ham lợi và bọn thực dân tà ác.
Chịu bao khổ đau, rồi cuối cùng tức nước cũng vỡ bờ, những tên xấu xa như cai lệ và lí trưởng cũng bị một phen hú hồn. Cai lệ là bộ mặt của những hống hách áp bức và bất công trong xã hội ngày xưa. Bản chất Cai lệ là một tên nghiện nặng, đi thu sưu thuế của người nông dân bần cùng khổ sở. Hắn vốn là một tên độc ác chỉ làm những điều dã man tàn bạo, tiêu biểu cho một hạng tay sai, công cụ đắc lực của cái trật tự xã hội ấy.
Trong lần đi thúc sưu, hắn đến nhà chị Dậu, hoàn cảnh gia đình chị rất khó khăn, thuộc hạng cùng đinh trong làng, chồng chị, anh Dậu đang bị bệnh nặng, Cai lệ hống hách đòi chị Dậu phải nộp sưu thuế. Hắn một tay cầm roi song, tay cầm thước. Gõ đầu roi xuống đất. Thét bằng giọng khàn khàn. Hắn xưng hô cũng thật thô thiển, gọi anh Dậu là thằng, xưng ông, gọi chị Dậu là mày, xưng ông, cha.
Trợn ngược hai mắt quát vào mặt chị Dậu: “Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!”, rồi tên Cai lệ sai người nhà Lí trưởng đến trói anh Dậu ra pháp đình, hắn vẫn không vừa, liền tát vào mặt chị Dậu một cái mạnh như búa bổ rồi cứ sấn đến chỗ anh Dậu… trói cho bằng được, chị Dậu lại liều mạng kháng cự, hắn bịch vào ngực chị Dậu mấy phát đau đớn một cách hung bạo rồi hét lên với cái giọng khàn khàn: ” Tha này! Tha này!”.
Chị Dậu tức giận, còn tên ai lệ vẫn hung hãn bước tới chỗ chồng chị. Bất giác, bất giác hắn bị chị túm lấy cổ ấn dúi ra cửa, bịch cho mấy phát vào bụng. Chị vớ được cây gậy của hắn, hai bên giằng co nhau, áp vào vật nhau rối túm tóc lẳng cho một cái, ngã ngào ra thềm. Dường như sức lẻo khoẻo của những người nghiện ngập như tên Cai lệ lại không bằng được với sức của người đàn bà lực điền. Hắn là một kẻ lòng lang dạ sói, vừa độc ác và hống hách, cậy quyền để ức hiếp những người dân lành yếu đuối đang sống trong cảnh khốn khổ và đói nghèo.
Qua cách miêu tả sinh động, rất chân thực của Ngô Tất Tố, không những chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của người nông dân mà còn hiểu rõ bản chất, bộ mặt của giai cấp thống trị bạo tàn, đè cổ nông dân mà chóc sưu thuế. Từ cách họa nhân vật sắc sảo ấy, các nhân vật kể cả nhân vật phản diện như Cai Lệ cũng hiện lên sống động. Qua đó, nhà văn tài hoa ấy cũng nhằm phê phán cho những tên cai lệ – người chỉ là một công cụ cho người khác sai khiến và điều khiển, một kẻ mất lương tri và vô nhân đạo.
Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 1
Có thể nói tên cai lệ vô danh không chút tình người là hiện thân đầy đủ nhất, rõ nét nhất của xã hội thực dân phong kiến đương thời.
Đăng bởi: Hoàn Khái
Từ khoá: 6 Bài văn phân tích nhân vật cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” của Ngô Tất Tố
10 Bài Văn Phân Tích Đoạn Trích “Tức Nước Vỡ Bờ” Trong “Tắt Đèn” Của Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố (1893- 1954) là nhà văn xuất sắc của trào lưu văn học trước Cách mạng, thơ ông mang đậm dấu ấn hiện thực, ông thường viết cuộc sống người nông dân trong xã hội phong kiến, ở đó luôn có sự bế tắc không lối thoát. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích từ chương XVIII của tiểu thuyết “Tắt đèn” – tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố. Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã vạch rõ bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đương thời đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng khốn khổ, bế tắc, khiến họ phải liều mạng cự lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” mà chúng mình đã tổng hợp trong bài viết sau đây.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 10Đoạn trích Tức nước vỡ bờ phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của chế độ thực dân phong kiến, đồng thời thể hiện sự sâu sắc nỗi thống khổ cũng như sức mạnh phản kháng tiềm tàng của người nông dân. Có đủ các hạng người được khắc họa sinh động trong bức tranh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng ấy. Giữa cái dám sâu bọ hại dân lúc nhúc ở cái làng quê u ám đang rên xiết trong vụ thuế kinh tởm thấy sáng lên một chị Dậu đảm đang, chịu thương chịu khó hết mực vì chồng vì con, một chị Dậu lam lũ, nhẫn nhục nhưng cũng đầy sức mạnh phản kháng, quyết không để đói khổ làm hoen ố phẩm hạnh.
Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn thể hiện tính chuyên nghiệp trong cướp bóc, hà hiếp dân lành. Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng qua những gì hắn làm, có thể nói hắn là hiện thân đầy đủ, rõ rệt cho cái “nhà nước” phi nhân tính, nhân quyền lúc bấy giờ. Hắn “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu”, “sấn đến để trói anh Dậu”, “tát vào mặt chị một cái đánh bốp”,… Hành động của hắn như một con thú dữ. Bản tính ác thú của tên này thể hiện cả ra ngôn ngữ: khàn khàn, quát, thét, hầm hè, nham nhảm… Tiếng của hắn đâu phải là tiếng người! Nếu là người thì hắn đã phải mủi lòng trước cảnh một người ốm nặng, đã động lòng trước những lời van xin tội nghiệp của chị Dậu, hắn đã biết thương hại… Đằng này, dường như hắn không có khả năng hiểu được ngôn ngữ của con người, hắn đáp lại những lời van vỉ của chị Dậu bằng chửi, đánh. Thật táng tận lương tâm!
Chỉ xuất hiện trong một thoáng chốc song nhân vật cai lệ dã được Ngô Tất Tố khắc họa một cách rõ nét, sống động hệt như một con thú ác thực sự, đang sống. Làm sao những người dân lành có thể sống yêu ổn được dưới roi song, tay thước, dây thừng của hạng người đểu cáng này! Thế mà chị Dậu đã phải sống, cả nhà chị Dậu đã phải sống và nói rộng ra, cả cái làng Đông Xá này đã phải sống, tất cả những người nông dân ở biết bao cái làng khác cũng đã phải sống. Chỉ có điều sống dở chết dở, sống đau sống đớn mà thôi! Chị Dậu thương chồng, con hết mực. Bát cháo chị nấu cho anh Dậu và cử chỉ “rón rén bưng”, “chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không” cho thấy nét đẹp trong bản lĩnh phụ nữ của chị. Và, vẻ đẹp của chị Dậu còn được thể hiện một cách đặc sắc khi một mình chị phải đứng ra đương đầu với lũ ác là tên cai lệ và người nhà lí trưởng. Như những người phụ nữ nông dân khác, chị Dậu có thể cam chịu, nhẫn nhục.
Chị đã phải “van xin tha thiết” trước bọn người đang nhân danh “nhà nước”, mặc dù là sự nhún chịu trước sự vô lí, bất nhân (đánh vào người đã chết). Chỉ đến khi tên cai lệ bất chấp, lại còn bịch vào ngực chị, xông đến trói anh Dậu thì “tức quá không thể chịu được”, chị đã “liều mạng cự lại”. Cái tài của Ngô Tất Tố là đã miêu tả rất tinh những diễn biến trong tâm lí và hành động của chị Dậu, để nó thế hiện ra chân thực trước mắt người đọc. Có thể xem quá trình diễn biến ấy có hai giai đoạn: từ chịu đựng nhẫn nhục đến phản kháng mãnh liệt. Thoạt đầu chị xưng cháu, gọi cai lệ bằng ông. Nhưng đáp lại những lời lễ phép thấu tình của chị, cai lệ quát: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?” rồi: “Ông sẽ dỡ cả nhà mày đi”, chưa hết: “Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”.
Đến lúc này, chị Dậu vẫn một mực tha thiết: “Cháu van ông,…,ông tha cho!”. Đến mức như thế nhưng cai lệ không những không mủi lòng mà còn xông tới đấm vào ngực chị Dậu. Đến đây, mới thấy bắt đầu những dấu hiệu phản kháng của người phụ nữ này: chị xưng tôi, gọi cai lệ là ông. “Không thể chịu được” nữa, chị Dậu đã đứng lên, với vị thế của kẻ ngang hàng, trực diện với thế lực áp bức. Quá trình diễn biến ấy được đẩy lên đỉnh điểm, kịch tính đã hết mức căng thẳng khi tên cai lệ tát “đánh bốp” vào mặt chị Dậu. Thế là thực sự bắt đầu một giai đoạn mới của sự phản kháng, chị xưng, gọi mày với tên cai lệ: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”… Từ cháu – ông đến tôi – ông và bây giờ là bà – mày, niềm căm giận đang bốc lên ngùn ngụt trong chị.
Căm thù, khinh bỉ tột độ, chị sẵn sàng đè bẹp kẻ thù với sức mạnh của một “bản năng sống” mạnh mẽ. Sức mạnh ấy được phóng ra như một năng lượng tiềm tàng thành những hành động: túm lấy cổ, ấn giúi ra cửa, túm tóc, lẳng. Trước sức mạnh ấy, hai tên tay sai đã thất bại thảm hại. Ngô Tất Tố miêu tả rất sống động cảnh chị Dậu tay không đánh bại hai tên tay sai đang lăm lăm vũ khí. Lòng căm phẫn, tình yêu thương chính là cội nguồn sức mạnh phản kháng mãnh liệt mà chị Dậu đã cho thấy những hành động cục súc, ác ôn của tên cai lệ là nguyên nhân trực tiếp, “châm ngòi nổ” cho hành động vùng lên của chị Dậu.
Nhưng sâu xa hơn, căn bản hơn, chính là tình thương trong chị đã biến thành sức mạnh. Một người phụ nữ nghèo khổ, quen nhẫn nhục hi sinh đã dám đứng thẳng lên với một sức mạnh phản kháng phi thường. Vẻ đẹp nhân cách của chị Dậu đã được thể hiện rõ nét. Thì ra, đằng sau sự khiêm nhường, vị tha, mộc mạc, nhẫn nhục, trong con người ấy vẫn tiềm tàng ẩn chứa một sức sống dồi dào, mãnh liệt. Sức sống ấy được bộc lộ ra bằng sự phản kháng quyết liệt như ta đã thấy. Nó chứng minh một chân lí của muôn đời: có áp bức thì có đấu tranh — điều mà nhân dân ta đã tổng kết trong một hình ảnh giản dị: “Tức nước vỡ bờ”.
Ngòi bút Ngô Tất Tố đã đạt đến một trình độ điêu luyện trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ: từ sự khéo léo trong khắc họa nhân vật cho đến việc lựa chọn sử dụng từ ngữ để lột tả chính xác, sinh động những diễn biến đầy kịch tính. Ông đã dựng lên một cảnh tượng cực kì sống động, một cảnh tượng đẹp, tươi sáng trong cái khung cảnh u ám, đen tối của Tắt đèn.
Những gì chúng ta được chứng kiến trong đoạn trích dự báo một khả năng, một sức mạnh lớn của người nông dân nói chung, phụ nữ nông dân nói riêng mà sau này, sức mạnh ấy được tập hợp thành vũ bão quật đổ thực dân, phong kiến trong Cách mạng tháng Tám.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 9Đoạn trích đã phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của chế độ thực dân nửa phong kiến, đồng thời thể hiện sự sâu sắc nỗi thống khổ cũng như sức mạnh phản kháng tiềm tang của người nông dân. Có đủ các hạng người được tác giả khắc họa sinh động, từng hình tượng nhân vật đều mang một nét phong cách tiêu biểu đặc trưng mà mình thể hiện. qua đó ta thấy được bức tranh thu nhỏ về đời sống nông thôn Việt nam trước Cách mạng Tháng Tám. Giữa đám sâu bọ hại dân bán nước lúc nhúc nơi làng quê u ám đang rên xiết trong vụ thuế kinh tởm thấy sang lên một chị Dậu đảm đang, chịu thương chịu khó hết mực một lòng vì chồng thương con, một chị Dậu lam lũ, nhẫn nhục nhưng cũng đầy sức mạnh phi thường phản kháng, quyết không để đói khổ làm hoen ố phẩm hạnh.
Hình tượng nhân vật chị Dậu được xem là điển hình cho người phụ nữ Việt trước Cách mạng Tháng Tám ở nước ta.Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu nên hoàn cảnh gia định chị Dậu, thuộc loại cùng nhất hạng cùng đinh, đang lâm vào tình cảnh bức bách của sưu thuế ngày đó. Chồng ốm đau lại bị đánh đập khổ sở dã man, chị Dậu một than một mình chạy vạy khắp nơi ngược xuôi để lo suất sưu cho anh Dậu .Đường cùng, chị đã phải đứt ruột gạt nước mắt mà bán con gái cho Nghị Quế. Một đứa con lên bảy cùng ổ chó cộng lại với được mấy hào bán gánh khoai mới đủ tiền nộp suất sưu để chồng được thả về. Nào ngờ bọn lí dịch lại bắt phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái, đầy gia đình chị đến mức đường cùng cơ cực.Anh Dậu về nhà với tình trạng thập tử nhất sinh. Bà hang xóm tốt bụng ái ngại cho cảnh đói nhà chị nên mang cho bát gạo để nấu cháo.
Đoạn trích tức nước vỡ bờ là cảnh buổi sớm hôm chúng tôi Dậu cố gượng ngồi dậy, chưa kíp đưa bát cháo lên miệng thì tên cai lệ và gã đầy tớ của lí trưởng xộc vào định trói anh để nã thuế. Chị Dậu lúc này phải đối mặt với tình thế nguy ngập: chồng chị vừa mới được thả trói, tưởng đã chết đêm qua, bây giờ lại trói lại bị đánh nữa thì anh không sống nổi. không đếm xỉa đến những lời van xin tha thiết của chị Dậu, tên cai lệ bất nhân vẫn nhất định xông vào trói anh Dậu. hắn là một tên tay sai chuyên nghiệp; với hắn không có hì khác ngoài đáng đập, trói người. hạng người này trong chế độ thực dân phong kiến bấy giờ là thứ công cụ thực sự, không còn là người, còn cai lệ thì hoành hành tác oai tác quái. Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn bộc lộ tính chuyên nghiệp trong hành nghề cướp bóc, hà hiếp người khác.
Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng những gì hắn làm, nói đều thể hiện rõ là bộ mặt của “nhà nước” phi nhân tính, nhân quyền bấy giờ. Hắn “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu”, “sấn đến để trói anh Dậu”, “tát vào mặt chị một cái bốp”…. hành động của hắn như một con thú dữ. bản tính của hắn đâu phải là người. nếu là người hắn đã mủi lòng mà xót thương, xúc động mà không lỡ hành xử như vậy với người phụ nữ mỏng manh như chị Dậu. hắn chỉ đáp lại những lời van xin thống thiết của chị Dậu bằng những cú đạp, những hành động của một con dã thú đội lốt người. Xuất hiện trong thoáng chốc song nhân vật cai lệ được Ngô Tất Tố khắc họa một cách rõ nét, sống đông hệt như con ác thú thực sự. qua đó ta thấy thương xót cho cuộc sống người nông dân Việt Nam nói chung bấy giờ.
Thử tưởng tượng cảnh chị dậu phải sống hay cũng chính là hình ảnh người nông dân phải trải qua. Thật kinh khủng. Sống trong không khí âm u, đè nặng bởi sưu cao thuế nặng ấy người nông dân phải chịu sự cùm kẹp như thế nào? Chị dậu thương chồng, con hết mực. Bát cháo chị nấu cho anh Dậu và cử chỉ “rón rén bưng”, “chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không” cho thấy nét đẹp trong ban lĩnh phụ nữ của chị. Vẻ đẹp của chị còn được thể hiện một cách đặc sắc khi một mình chị phải đứng ra đương đầu với lũ ác tà là tên cai lệ và người nhà lí trưởng.Giống bao phụ nữ nông dân khác, chị có thể cam chịu, nhẫn nhục. Chị đã phải “van xin tha thiết” trước bọn người nhân danh “nhà nước”, mặc dù là sự nún nhịn trước sự vô lí, bất nhân. Chỉ đến khi tên cai lệ bất chấp, lại còn bịch ngực chị, xông đến trói anh Dậu thì nước tràn bờ và chị “liều mạng cự lại”.
Ngô Tất Tố rất tài tình khi miêu tả rất tinh những diễn biến tâm lí và hành động của chị Dậu, để nó diễn ra một cách chân thực trước mắt người đọc. ta có thể xem quá trình diễn biến ấy làm hai đoạn: từ chịu đựng nhẫn nhục đến phản kháng mãnh liệtThoạt đầu chị xưng cháu gọi cai lệ bằng ông. Nhưng đáp lại lời là cái quát của cai lệ “ Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?” thậm chí còn “giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. lúc này chị vẫn một mực tha thiết “Cháu van ông…ông tha cho”. Đến mức như thế nhưng cai lệ không những không mủi lòng mà còn xông tới đấm vào ngực chị. Đến đây, mới thấy bắt đầu dấu hiệu phản kháng của người phụ nữ này: chị xưng tôi, gọi cai lệ là ông. “không thể chịu được” nữa, chị Dậu đứng lên với vị trí ngang hang kẻ thù, đối đầu trực diện.
Quá trình diễn biến ấy được đẩy lên đỉnh điểm, kịch tính đã hết mức căng thẳng khi tên cai lệ tát “đánh bốp” vào mặt chị Dậu. thế là thực sự bắt đầu một giai đoạn mới của sự phản kháng. Chị xưng mày tao với tên cai lệ: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Từ cháu-ông đến tôi-ông bây giờ là bà-mày, niềm căm hận bốc lên ngùn ngụt trong chị. Căm thù, khinh bỉ tột độ, chị sẵn sàng đè bẹp kẻ thù với sức mạnh của một “bản năng sống” mạnh mẽ. sức mạnh ấy được phóng ra như một năng lượng tiềm táng thành những hành động mạnh bạo: túm lấy cổ, ấn giúi ra cửa, túm tóc, lẳng. Trước sức mạnh ấy, hai tên kia đã thất bại thảm hại hay cũng chính là thất bại tất yếu mà lũ tay sai bè phái bán nước hại dân nhận được.
Bằng tài năng miêu tả tâm lí nhân vật, khả năng dựng cảnh, tính huống Ngô Tất Tố đã dựng lên một khung cảnh sống ngột ngạt nơi làng quê. Từ đó mà ta thấy được rõ hơn, đồng cảm hơn với cuộc sống cũng cực ủa người nông dân bấy giờ. Nhưng phía sau đó vẫn là một niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 9
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 8Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 9
Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực trước Cách mạng tháng tám, nhiều tác phẩm của ông nhằm có giá trị tố cáo sâu sắc chúng ta đã thấy được những hình ảnh đó qua những nhân vật nổi bật trong tác phẩm “Tức nước vỡ bờ.”
Những đề tài tiêu biểu mà Ngô Tất Tố thể hiện qua những tác phẩm của mình đó là sự nghèo khổ của những người nông dân, họ bị bần cùng hóa và lâm vào một con đường khó khăn, họ bị xã hội trà đạp, bị cái đói bao vây. Nhưng nhân dân đói khổ đó một phần là do chiến tranh gây ra một phần là do những thế lực cầm quyền tàn ác đã bòn rút hết những của cải của nhân dân, chúng ta đã thấy trong “Tức nước vỡ bỡ” hình ảnh người nông dân nghèo khổ luôn bị áp bức bóc lột, bị nộp sưu cao thuế nặng đã làm cho mỗi người đều cảm thấy phẫn uất trước những hiện tượng đó. Học phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” khi vừa chịu những ách bóc lột của những kẻ tàn dư còn sót lại, vừa những kẻ đi theo thực dân Pháp bán đứng Tổ Quốc.
Trong đoạn trích, ông thành công trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ trong xã hội đương thời thông qua nhân vật chị Dậu. Và ông rất sắc xảo khi gây dựng những tình tiết trong truyện xoay quanh nhân vật chị Dậu, đã làm sáng lên phẩm chất của người nông dân dù bị đọa đầy. Nhà văn miêu tả chân thực và cảm động về số phận tủi cực của người nông dân bị áp bức, bóc lột, bị dồn đến bước đường cùng. Nhà văn chân thành ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong hoàn cảnh sống tối tăm, ngột ngạt. Gia đình chị Dậu thuộc loại cùng nhất hạng cùng đinh đang lâm vào tình cảnh bức bách của sưu thuế. Chồng ốm đau lại bị đánh đập khổ sở, chị Dậu một thân một mình chạy vạy ngược xuôi để lo suất Sưu cho anh Dậu. Nếu bị chúng đánh trói lần nữa thì mạng sống của anh khó mà giữ được. Vấn đề quan trọng nhất đối với chị Dậu giờ đây là làm sao bảo vệ được chồng trong tình thế nguy ngập này.
Đoạn trích tiếp nối câu chuyện trên. Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn bộc lộ tính chuyên nghiệp trong hành nghề cướp bóc, hà hiếp người khác. Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng những gì hắn làm, nói đều thể hiện rõ là bộ mặt của “nhà nước” phi nhân tính, nhân quyền bấy giờ. Hắn “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu. Thoạt đầu, chúng định lôi anh Dậu đi nhưng không hành hung mà chúng lại chửi bới mỉa mai đến nỗi chị Dậu vẫn van xin “cháu xin ông” để khất hạn nộp sưu nhưng rồi chúng sấn đến đánh chị”, “sấn đến để trói anh Dậu”, “tát vào mặt chị một cái bốp”…. hành động của hắn như một con thú dữ, bản tính của hắn đâu phải là người. Lúc này đã chạm đến giới hạn cuối cùng, tính cách của “người đàn bà lực điền” ấy mới bộc lộ một cách mạnh mẽ và cứng cỏi hơn. Vậy nên người ta mới nói có áp bức bất công thì ắt hẳn có sự đấu tranh.
Chị Dậu đang đứng lên để bảo vệ gia đình và cuộc sống của mình. Chị liều mạng chống cự lại những cú đấm thô bạo bằng những lí lẽ sắc bén:” Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!” Không còn xưng hô tôn trọng với những kẻ độc ác và bạo tàn. Chị đứng lên ngang hàng với những kẻ bạo tàn để đấu tranh. Một hành động phản kháng rất mạnh mẽ, chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi đầu ra cửa ” Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Tuy vậy, hành động của chị Dậu chỉ là một cá nhân chứ chưa phải là cả xã hội cùng đấu tranh để giải phóng giai cấp. Có lẽ theo quy luật, càng nhiều áp bức thì sẽ càng xuất hiện đấu tranh. tên cai lệ vô danh đó là hiện thân đầy đủ nhất của cái guồng máy “nhà nước” bất nhân lúc bấy giờ. Tuy chỉ xuất hiện trong một đoạn văn ngắn nhưng nhân vật cai lệ được ngòi bút tả thực của tác giả khắc họa nổi bật, có giá trị khái quát cao.
Bằng tài năng nghệ thuật, cách xưng hô chọn lọc phù hợp cùng với nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo, Ngô Tất Tố đã truyền cho người đọc tình yêu thương, sự đồng cảm với nhân vật chị Dậu cũng như người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 7Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 8
“Tắt đèn”là bản tố khổ chân thật, sâu sắc, chan hoà nước mắt và lòng căm phẫn của người nông dân nghèo bị bóc lột, đàn áp. Có lẽ chính nhà văn Ngô Tất Tố cũng không cầm được nước mắt. Cái đáng quý ở nhà văn này là thái độ phẫn nộ với giai cấp bóc lột và lòng thương người mênh mông. “Tức nước vỡ bờ” vốn là câu tục ngữ mang tính quy luật tự nhiên (nước đã dâng lên cao thì bờ ngoài vỡ nhưng cũng có ý nghĩa xã hội sâu sắc…, Người ta đã vận dụng câu tục ngữ này làm tiêu đề, tên gọi của một đoạn trích hết sức điển hình trong tiểu thuyết Tắt đèn.
Năm đó là năm mất mùa, gia đình chị Dậu vốn nghèo khó phải đi làm thuê lại càng khó khăn hơn. Để đóng tiền sưu cho chồng, chị đã phải bán gánh khoai, bán đàn chó và đến cái Tí- con gái lớn của chị cũng bán cho ông bà Nghị Quế mới đủ tiền nộp sưu cho anh Dậu. Nhưng bọn chúng đã không tha cho gia đình chị, bắt gia đình chị nộp cả sưu thuế cho người em trai đã mất từ năm ngoái. Vì không nộp, anh Dậu đã bị bọn chúng bắt, đánh đập đến nỗi như một cái xác rồi quẳng trả gia đình chị. Chị Dậu vô cùng thương chồng. May được bà hàng xóm thường tình giúp đỡ cho bát gạo để chị nấu cháo cho chồng.
Khi anh Dậu cố gượng ngồi dậy, chưa kịp đưa bát cháo lên miệng thì tên cai lệ và gã đầy tớ của lí trưởng xộc vào định trói anh để nã thuế. Chị Dậu lức này phải đốì mặt với tình thế nguy ngập: chồng chị vừa mới bị bắt trói, tưởng đã chết đêm qua, bây giờ mà lại bị trói bị đánh nữa chắc anh không sống nổi. Không đếm xỉa đến những lời van xin tha thiết của chị, tên cai lệ bất nhân nhất định xông vào trói anh Dậu. Hắn là một tên tay sai chuyên nghiệp; với hắn không có gì khác ngoài đánh, trói. Hạng người này trong chế độ thực dân, phong kiến sẽ thành thứ công cụ thực sự, không còn là người, ở cái làng Đông Xá ấy, cai lệ thỏa sức hoành hành, tác oai tác quái. Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn thể hiện tính chuyên nghiệp trong cướp bóc, hà hiếp dân lành.
Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng qua những gì hắn làm, có thể nói hắn là hiện thân đầy đủ, rõ rệt cho cái “nhà nước” phi nhân tính, nhân quyền lúc bấy giờ. Hắn “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu”, “sấn đến để trói anh Dậu”, “tát vào mặt chị một cái đánh bốp”,… Hành động của hắn như một con thú dữ. Bản tính ác thú của tên này thể hiện cả ra ngôn ngữ: khàn khàn, quát, thét, hầm hè, nham nhảm… Tiếng của hắn đâu phải là tiếng người! Nếu là người thì hắn đã phải mủi lòng trước cảnh một người ốm nặng, đã động lòng trước những lời van xin tội nghiệp của chị Dậu, hắn đã biết thương hại… Đằng này, dường như hắn không có khả năng hiểu được ngôn ngữ của con người, hắn đáp lại những lời van vỉ của chị Dậu bằng chửi, đánh. Thật táng tận lương tâm!
Lúc đầu chị Dậu tuy giận nhưng vẫn nhẫn nhục van xin tên cai lệ độc ác: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô của chị là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự nhún mình. Lúc bọn chúng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định trói anh một lần nữa, chị Dậu đã xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ, năn nỉ: Cháu xin ông. Những lời nói và hành động ấy của chị chỉ nhằm mục đích bảo vệ chồng.
Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách, phẩm chất của chị Dậu mới bộc lộ đầy đủ. Tên cai lệ không thèm nghe chị. Hắn đấm vào ngực chị và cứ sấn đến trói anh Dậu. Chị Dậu đã chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách của chị Dậu là kết quả tất yếu của cả một quá trình chịu đựng lâu dài trước áp lực của sự tàn ác, bất công. Nó đúng với quy luật: Có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu. Từ vị thế của kẻ dưới: Cháu van ông…, chị Dậu thoắt nâng mình lên ngang hàng với kẻ xưa nay vẫn đè đầu cười cổ mình: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Câu nói cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu. Tức thì, sau lời cảnh cáo đanh thép của kẻ trên đối với kẻ dưới: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! là hành động phản kháng dữ dội: Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xồ đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc, lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Tình yêu chồng, thương con cộng với tinh thần phản kháng âm ỉ bấy lâu đã thổi bùng lên ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu – người đàn bà hiền lương, chất phác. Nỗi sợ cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, chỉ còn lại nhân cách cứng cỏi của một con người chân chính: Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được. Tuy vậy, hành động phản kháng của chị Dậu hoàn toàn mang tính manh động, tự phát. Đó mới chỉ là cái thế tức nước vỡ bờ của một cá nhân mà chưa phải là cái thế của một giai cấp, một dân tộc vùng lên phá tan xiềng xích áp bức bất công. Có áp bức, có đấu tranh, áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt và hành động của chị Dậu đã chứng minh cho chân lí ấy.
Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn hay của tác phẩm Tắt đèn. Nhà văn Ngô Tất Tố đã dành cho nhân vật chính là chị Dậu tình cảm yêu thương, thông cảm và trân trọng. Những tình tiết sinh động và đầy kịch tính trong đoạn trích đã góp phần hoàn thiện tính cách người phụ nữ nông dân đẹp người, đẹp nết.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 6Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 7
Ngô Tất Tố, nhà báo nổi tiếng, là một học giả có những công trình khảo cứu về triết học phương Đông và về văn học cổ có giá trị. Ông còn là nhà văn có tài luôn gần gũi nông dân “chân lấm tay bùn” với những án văn bất hũ, tiêu biểu trong số đó là tác phẩm “Tắt đèn”. Với cái nhìn sâu sắc, tài chọn lựa những nhân vật điển hình, nhà văn đã tái hiện hình ảnh thảm sầụ của nông dân Việt Nam, đồng thời “Tắt đèn” cũng chính là “cáo trạng” kể về tội ác của bọn quan lại, địa chủ và cường hào ác bá thời thực dân – phong kiến. Tiêu biểu cho cảnh thảm sầu đó là hình ảnh gia đình chị Dậu trong mùa sưu thuế. Dù sống trong cảnh khổ cực, tủi nhục ra sao thì chị Dậu vẫn là người phụ nữ chất phát, lương thiện, giàu đức hy sinh và tình chân thật của một người vợ và người mẹ. Và khi bị chế độ áp bức đẩy vào chân tường, chị đẫ dám chống lại bằng chính sức mạnh của mình qua đoạn văn trích “Tức nước vỡ bờ”.
Vì thiếu sưu thuế mà anh Dậu bị bọn cường hào ác bá bắt giải ra đình hành hạ, đánh đập, bỏ nắng, phơi sương đến độ ngất xỉu. Vì bị sợ vạ lây nên bọn chung sai người nhà lý trưởng cõng cái xác không hồn của anh về trả cho gia đình chị Dậu. Trong cảnh khốn cùng, chị đã tìm mọi cách để cứu chồng tỉnh lại. Chỉ một hành động ấy thôi cũng đủ chứng tỏ chị có lòng thương yêu đậm đà đối với anh Dậu rồi. Anh Dậu vừa tỉnh lại thì trong nhà không có lấy một hạt gạo để cầm hơi. Chị phải vất vả ngược xuôi đi vay mượn ở hàng xóm được lon gạo về nấu cháo cho chồng. Cháo vừa chín, chị ngả mâm bát múc ra la liệt và “lấy quạt, quạt cho cháo mau nguội ” thì tiếng trống, tiếng tù và, tiếng chó sủa đã inh ỏi vang lên ở đầu làng. Hơn ai hết, chị đã một lần hiểu được sau âm thanh oan nghiệt kia chuyện gì sẽ xảy đến cho anh Dậu, cho gia đình chị. Bởi vậy chị càng băn khoăn, lo lắng.
Qua lời đối thoại của chị với bà hàng xóm lúc bà hớt hải chạy qua khuyên chị nên mang anh Dậu đi trốn sưu, cũng đã làm rõ sự băn khoăn suy nghĩ đó. Chị trả lời: “thưa cụ cháu cũng nghĩ như cụ”. “Nghĩ như cụ” là chị cũng định mang anh Dậu đi trốn sưu, nhưng vì anh “nhịn suông từ sáng hôm qua đến giờ”, nên chị đã nấn ná để cho chồng húp ba miếng cháo lấy lại sức trước khi đi trốn. Cháo nguội, chị bưng một bát lớn rồi “rón rén” đặt cạnh chỗ anh Dậu nằm. Có cử chĩ nào đầy tình thương trong bước đi nhẹ nhàng của người phụ nữ chỉ vì muốn cho chồng mình được yên tĩnh trong những phút ốm đau. Chẳng những thế chị còn cố nài nỉ: “Thầy hãy cố dậy húp lấy vài húp cho đỡ xót ruột”. Lời nói ấy chỉ có ở những người phụ nữ vừa giàu lòng thương yêu, vừa kính trọng chồng. Thêm vào đó “chị còn cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không?”. Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ cho người đọc thấy chị là con người hy sinh, lấy hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính bản thân mình.
Anh Dậu vừa bưng bát cháo đưa lên miệng húp thì tên cai lệ và người nhà lý trưởng sầm sập, hùng hổ tiến vào. Chúng hoạnh hoẹ, chửi bới, đe dọa, để cố đòi cho được tiền sưu.
“Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xải cũ:
– Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!”.
Trước cử chỉ, giọng nối sặc mùi quan liêu, hách dịch nhưng vô cùng bệ rạc đó của tên cai lệ, anh Dậu hoảng quá “vợ để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì”. Chỉ một mình chị Dậu tay nách con tìm cách đối phó. Những giây phút đầu tiên chị Dậu đã “run run” lo sợ, nhưng rồi chị đã bình tĩnh trỡ lại và cố tìm lời khôn khéo để vừa khất cho được tiền sưu thuế, vừa trả đũa lại kẻ thù. Chị đã tự hạ mình xuống hàng “con” “cháu” và tôn xưng kẻ thù là “ông”. Dù bị xâm phạm đến danh dự của cá nhân, của gia đình mình, bị đe dọa: “giời cả nhà mày đi” và bị chửi bới: “nói cho cha mày nghe đấy à”, thì chị vẫn cố nén sự tức giận của mình, vẫn cố chứng minh sự vô lý của việc chính quyền bắt nhà chị phải đóng sưu, vẫn cố van xin tha thiết:
Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thể. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất… và khi không thuyết phục được thì chị đã hé ra một chút liều để xin khất sưu: “Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!”
Không đáp lại lời cầu xin, tên cai lệ ra lệnh cho người nhà lý trưởng “trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!”. Người nhà lý trưởng “hình như không dám hành hạ một người” ốm nặng thì chính anh ta giật phắt sợi dây thừng đi đến chỗ anh Dậu. Lúc này chị Dậu mới “xám mặt”, ấy là màu sắc biểu hiện của người đang trong tâm trạng vừa sợ, vừa lo. Chị vội vàng đặt con xuống đất, chạy lại vừa đỡ lấy tay cai lệ vừa năn nỉ:
Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
Đúng là một cảnh tượng sống động đã xảy ra giữa một người đàn ông có chút quyền lực với người nữ nông dân có con mọn hiếm thấy. Hành động của hắn như lửa đổ thêm dầu. Chị Dậu đã liều mạng cự lại. Lời nói của chị ở vị trí của một kẻ ngang hàng với kẻ thù và như ra lệnh “chồng tôi đau ốm không được phép hành hạ”, và rồi chị nói như thách thức: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Xét về thái độ và ngôn ngữ, nếu cai lệ và người nhà lý trưởng ỷ thế cậy quyền, tỏ ra quan liêu, hách dịch thì chị Dậu là người biết thủ phận, nhịn nhục dù đang chịu sự bất công chèn ép. Điều ấy được biểu hiện ở những lời xưng hô ban đầu của chị. Thay đổi cách xưng hô ấy là diễn biến tâm trạng biểu hiện thành lời nói. Tự hạ mình thành hàng “con cháu”, “tôi”, và khi căm giận tới tột cùng thì chị đã xưng là “bà”, còn cai lệ từ vai “ông” biến thành “mày”. Không dừng lại ở lời nói, chị đã đáp trả bằng hành động khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch”.
Lấy bạo lực trừng trị bạo lực. Chị đã biến sự căm thù thành hành động tích cực nhất. Chị đã xông về phía tên cai lệ để: “túm lấy cổ ấn giúi ra cửa”. Người nhà lý trưởng thấy đàn anh của mình bị đánh ngã nên hắn lại xông vào. Với sức mạnh của nữ lực điền, chị nắm lấy tóc quẳng cho một cái, khiến “hắn ngã chòng queo ra thềm”. Chị vừa biểu lộ tinh thần đấu tranh, vừa chứng tỏ tiềm năng của những người nô lệ khi đã bị đẩy đến chân tường. Điều ấy càng được chứng tỏ ở câu trả lời của chị khi nghe anh Dậu nhắc đến chuyện “phải tù phải tội” khi đánh bọn người đi đòi sưu thế:
Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”
Chị Dậu đúng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam sau lũy tre làng.
Khi bị quyền lực bất công dồn vào chân tường, họ biết vùng dậy. Dù là đấu tranh “tự phát” đánh bọn cai lệ người nhà lý trưởng để “thà chịu ngồi tù”, nhưng hành động đấu tranh của chị đã giúp ta nhận rõ thêm phần nào chân lý: “Nơi nào có áp bức nơi đó có đấu tranh”, “Tức nước” (quyền lực bất công đàn áp) thì “vỡ bờ” (nhân dân vùng lên chống lại); thấy rõ sức mạnh tiềm tàng của phụ nữ Việt Nam.
Với nghệ thuật chọn lọc những chi tiết gây căng thẳng, miêu tả thật tự nhiên và đầy kịch tính, nhà văn Ngô Tất Tố đã làm xúc động người đọc qua nhân vật chị Dậu trong tác phẩm: “Tắt đèn” ông xứng đáng là người có công lớn trong việc hình thành và phát triển nền tiểu thuyết Việt Nam thuộc dòng văn học Hiện thực phê phán, thật xứng với lời nhận xét của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan rằng: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”, và của nhà văn Nguyễn Tuân: “Xui người nông dân nổi loạn”.
Hiện nay phụ nữ đã biết đâu tranh giành quyền lợi thiết thực hàng ngày, vừa chống những hiện tượng tiêu cực để xây dựng xã hội vừa dạy dỗ con cái, biết lo cho chồng con và còn là những giáo viên dạy giỏi, thợ dệt tiên tiến, bác sĩ tận tụy trong việc làm để xây dựng đất nước. Họ cũng đã đồng lòng chung sức họp lại để đương đầu với mọi khó khăn trước mắt. Để khỏi phụ lòng những bà mẹ, những người chị đáng kính, em càng nỗ lực trong học tập, tích cực rèn luyện để sau này có đầy đủ tài năng về phẩm chất chống lại bất cứ một ai muốn dùng quyền lực để buộc con người hôm nay phải sống cảnh tủi nhục như chị Dậu đã phải sống.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 6
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 5Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 6
Tắt đèn là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Ngô Tất Tố, tác phẩm không chỉ mang giá trị hiện thực mà còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Mặc dù bị đàn áp, bị đẩy đến bước đường cùng nhưng họ không cam chịu, mà luôn mang trong mình tinh thần phản kháng mãnh liệt. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ một mặt vạch trần bản chất độc ác của giai cấp thống trị, mặt khác ngợi ca vẻ đẹp tình yêu thương và sức mạnh tinh thần phản kháng của những người nông dân.
Nhan đề “Tức nước vỡ bờ” do nhà biên soạn đặt, nó là một câu thành ngữ thể hiện quy luật khi nước bị dồn ứ lâu, quá đầy sẽ làm vỡ bờ ngăn. Qua câu thành ngữ này nhằm nói lên quy luật xã hội: có áp bức ắt có đấu tranh. Lấy nó làm nhan đề đoạn trích là hoàn toàn hợp lí: một mặt vừa phán ảnh đúng nội dung của tác phẩm, mặt khác nêu lên chân lí: khi con đường sống của quần chúng bị áp bức thì chỉ có con đường đấu tranh để tự giải phóng chính mình. Tác phẩm có hai hình tượng trung tâm là tên cai lệ và chị Dậu. Mỗi nhân vật đại diện cho một giai cấp, một phẩm chất khác nhau, qua đó bộc lộ những suy nghĩ, quan điểm của tác giả về xã hội lúc bấy giờ.
Nhân vật cai lệ là đại diện cho bộ mặt độc ác, bất nhân của những kẻ cầm quyền trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Hắn ta là một tên tay sai “chuyên nghiệp”, thành thạo trong việc đánh, trói, dọa nạt và cướp bóc của dân lành. Hành động gây tội ác được hắn ý thức rằng đang thực thi công việc của “người nhà nước”. Chính bởi suy nghĩ đó nên mỗi hành động của hắn vô cùng độc ác, không có chút tình thương. Trước hết là qua lời nói, hắn dùng những lời lẽ cộc cằn, thô lỗ: “thét” “quát” “hầm hè” “nham nhảm thét”,… Thể hiện rõ ràng nhất qua hành động. Mặc dù anh Dậu đang bị ốm nặng, chị Dậu tha thiết van xin, quỳ lạy nhưng hắn vẫn sẵn sàng bắt và đánh anh Dậu. Người nhà lí trưởng lo lắng không dám hạ thủ trước một người ốm nặng thì chính hắn là kẻ trực tiếp ra tay. Hắn “giật phắt cái thừng” từ tay người nhà lí trưởng “chạy sầm sập đến để trói anh Dậu”. Hắn là kẻ vô nhân tính, tàn bạo. Trước sự can ngăn của chị Dậu hắn chẳng ngại ngần “bịch luôn vào ngực”, “tát vào mặt”,… ngay cả với một người phụ nữ hắn cũng sẵn sàng đánh đập. Hắn quả thật không bằng loài cầm thú.
Bên cạnh tên cai lệ độc ác, bất nhân lại hiện lên hình ảnh của một chị Dậu có hoàn cảnh đáng thương nhưng giàu tình yêu thương và sức phản kháng mãnh liệt. Gia đình chị vốn là hạng cùng đinh trong làng, chạy vạy vất vả mãi mới lo được tiền sưu cho chồng, nay lại thêm tiền sưu cho người em đã mất, khiến gia đình chị càng khốn đốn hơn. Chị bán cả chó, cả con mà vẫn không đủ tiền nộp sưu, giữa tình cảnh đó thì cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào đòi bắt lôi anh Dậu đi. Tình cảnh hết sức khốn cùng và thảm thương.
Tình yêu thương của chị được thể hiện rõ nhất qua lời nói, hành động với chồng. Chị lấy bát cháo mang lại cho chồng, chị ngồi nhìn anh ăn và lo lắng từng miếng anh có ăn ngon miệng không. Dáng vẻ của người đàn bà ấy thật đáng trân trọng làm sao. Chị cũng khốn khổ chạy vạy khắp nơi, nhưng đến lúc này chị chỉ suy nghĩ cho chồng, cho con mà không hề quan tâm đến bản thân mình. Khi cai lê đến chị hết sức van xin, khất sưu, chị hạ mình trước tên cai lệ mạt hạng để chồng không bị đánh trói. Khi mọi sự nỗ lực của chị đều bị khước từ chị sẵn sàng đứng lên đánh nhau với chúng để bảo vệ chồng. Chị quả là một phụ nữ thủy chung, yêu thương chồng mình hết mực.
Nhưng không dừng lại ở đó, trong phụ nữ nông dân chất phác ấy còn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Sự phản kháng của chị thể hiện theo trình tự hết sức hợp lí từ chỗ cố gắng van xin, đến chống cự bằng lí lẽ và cuối cùng là đáp trả bằng hành động. Sự phản kháng của chị là bột phát nhưng cũng phần nào cho thấy sức sống tiềm tàng trong chị và những người nông dân như chị. Khi bị áp bức, bị dồn đến bước đường cùng chắc chắn họ sẽ vùng lên đấu tranh: “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”. Chị Dậu vốn là người phụ nữ mộc mạc, khiêm nhường, giàu lòng yêu thương, chịu đựng nhưng không hề yếu đuối. Trái lại chị có một tinh thần phản kháng và sức sống mãnh liệt. Chị là đại diện điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Tác phẩm thành công ở nghệ thuật xây dựng truyện. Tình huống truyện giàu kịch tính, được đẩy lên cao trào. Chính những xung đột mâu thuẫn đã làm cho tính cách mỗi nhân vật được bộc lộ. Tính cách nhân vật chủ yếu được thể hiện qua hành động, ngôn ngữ chưa đi sâu miêu tả nội tâm nhân vật: cai lệ độc ác, bất nhân đại diện cho bộ máy cầm quyền; chị Dậu yêu thương chồng con, sức sống tiềm tàng mãnh liệt, đại diện cho vẻ đẹp người nông dân. Ngôn ngữ giàu chất hiện thực, giản dị, dễ hiểu, mang hơi thở thời đại.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, ngôn ngữ giản dị tác giả đã cho thấy cuộc sống của người dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Lên án những kẻ cầm quyền độc ác, nhẫn tâm đàn áp, áp bức nhân dân đến bước đường cùng. Đằng sau đó còn là thái độ yêu thương, cảm thông cho những số phận bất hạnh và trân trọng ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người nông dân.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 4Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 5
Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng nhất thời kì cách mạng. Các tác phẩm của ông luôn đi liền với hình ảnh những người nông dân khốn khổ, luôn bị bóc lột, bị áp bức mà không thể tìm ra được lối thoát. Và nhắc tới ông, có lẽ chúng ta sẽ được nghe đầu tiên là tác phẩm “Tắt đèn”. Và trong tác phẩm, phân đoạn “Tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn văn gây nhiều xúc động và có ý nghĩa nhất trong lòng người đọc.
Tác giả lấy đề tài từ vụ thuế hàng năm ở những làng quê Bắc Bộ, với những hình ảnh như in đậm vào tâm trí của người đọc, hiện lên số phận bi thảm của những người phụ nữ nói chung và những người nông dân nói riêng cùng bản chất của giai cấp thống trị trong xã hội đương thời. Đó là tình cảnh của người nông dân “một cổ hai tròng” khi vừa chịu ách bóc lột của những kẻ tàn dư phong kiến còn sót lại, vừa của những kẻ đi theo thực dân pháp, bán đứng tổ quốc. Trong tác phẩm, tác giả đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vẽ nên chân dung của hàng loạt những nhân vật ở trong tác phẩm. Điển hình cho những kẻ áp bức con người là vợ chồng Nghị Quế, luôn lợi dụng tình cảnh của những con người đang gặp khó khăn nhằm trục lợi hay những bọn tay sai cường hào tuy chỉ là những kẻ làm thuê nhưng chúng lại không biết thương yêu những người đồng loại vất vả mà lại chỉ biết áp bức những người nông dân tay không tấc sắt. đó chính là những con người đại diện tầng lớp tiêu biểu phong kiến tàn dư của xã hội.
Ngoài ra, tác giả còn rất khéo léo xây dựng hình tượng vô cùng kiên cường mà cũng đầy cảm động về hình ảnh của chị Dậu – một người phụ nữ luôn hết lòng chăm lo cho chồng cho con mà không nghĩ cho mình bao giờ. Tốt đẹp là thế nhưng họ luôn phải chịu sự áp bức từ kẻ khác. Họ cũng không có cách nào để phản kháng hoàn toàn bởi chính họ còn không biết làm cách nào thoát ra khỏi vũng lầy. Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn hào lí trong làng đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cô gắng hết sức để cứu chồng nhưng cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự bắt bớ, hành hạ. Có thấy được tình thương yêu chổng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình dung được sự dũng cảm quên mình của chị. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt và giọng nói của người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình cảm tha thiết đến nao lòng.
Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế. Chồng bị đánh đập, gông cùm. Một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa bưng bát cháo kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập sấn vào với những roi song, tay thước và dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá khiếp đảm, anh Dậu đã lăn đùng ra không nói được câu gì, chỉ còn chị Dậu một mình phải đối phó với những kẻ độc ác, luôn đòi ra tay với vợ chồng chị.
Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai, đe dọa thì chị Dậu vẫn nhũn nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Vả lại, kinh nghiệm lâu đời đã thành bản năng của người nông dân thấp cổ bé họng là phải biết rõ thân phận mình. Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ dám năn nỉ, khơi gợi lòng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tĩnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định bắt trói anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ van nài: Cháu xin ông! Mọi lời nói, hành động của chị Dậu đều không ngoài mục đích để bảo vệ chồng.
Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật sự bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm thô bạo rồi sấn đến trói anh Dậu thì chị tức quá không thể chịu được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất công. Điều đó đúng với quy luật có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu. Lúc đầu, chị cự lại tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Thực ra, chị chỉ nói đốn lòng nhân đạo tối thiểu của con người. Chị không còn xưng cháu và gọi tên cai lệ bằng ông nữa mà xưng là tôi – ông, ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.
Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu vụt trở thành ngang hàng với những kẻ xưa nay vẫn đè đầu cưỡi cổ mình. Câu nói của chị là lời cảnh cáo cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu đi. Lòng yêu thương chồng tha thiết đã thúc đẩy chúng phải hành động chống trả quyết liệt lũ tay sai tàn ác đang cố tình phá nát gia đình chị.
Chị không chấp nhận để chồng mình bị hành hạ thêm một lần nữa. Hành động chống trả bọn tay sai diễn ra thật bất ngờ nhưng thực ra mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới vẻ ngoài cam chịu nhẫn nhục thường ngày của chị. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức lên đến tột đỉnh khiến cho thái độ phản kháng bùng lên dữ dội. Tiếp sau lời cảnh cáo đanh thép là hành động phản kháng mạnh mẽ. Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm Do đâu mà chị Dậu có sức mạnh lạ lùng một lúc quật ngã hai tên tay sai hung hãn như vậy ? Đó là sức mạnh của lòng căm hờn mà cái gốc của lòng căm hờn ấy lại chính là tình yêu thượng và ý thức bảo vệ chồng con của người đàn bà nghèo khổ.
Tuy vậy, sự phản kháng của chị Dậu mới chỉ là hành động tức nước vỡ bờ của một cá nhân chứ chưa phải là hành động vùng lên phá vỡ áp bức bất công để tự giải phóng của một giai cấp, một dân tộc. Thế nhưng nó cũng chứng minh cho quy luật có áp bức, có đấu tranh. Áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt.
Ý nghĩa của câu tục ngữ “tức nước vỡ bờ” qua ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố đã được thể hiện thật sống động và đầy thuyết phục. Tuy tác giả khỉ đó chưa giác ngộ cách mạng và tác phẩm kết thúc bằng cảnh ngộ bế tắc của chị Dậu nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rằng Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “xui người nông dân đấu tranh cách mạng…”.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 4
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 3Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 4
Ngô Tất Tố là nhà văn bậc thầy trong trào lưu văn học hiện thực những năm mà đất nước còn gian khó, nhân dân bị đọa đầy. Trong hoàn cảnh ấy, tác giả lấy bối cảnh từ một vụ thu sưu thuế ở làng quê để qua đó phản ảnh số phận khổ đau của những người nông dân trong xã hội đương thời đồng thời tố cáo giai cấp thống trị. Đặc biệt qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, mâu thuẫn của giai cấp khác nhau đã tạo ra sự thu hút với người đọc, khiến họ thương cảm cho chị Dậu và dấy lên sự tức tối, lòng thù hận với giai cấp thống trị.
Trong đoạn trích, ông thành công trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ trong xã hội đương thời thông qua nhân vật chị Dậu. Và ông rất sắc xảo khi gây dựng những tình tiết trong truyện xoay quanh nhân vật chị Dậu, đã làm sáng lên phẩm chất của người nông dân dù bị đọa đầy.
Việc thu sưu thuế vẫn diễn ra gay gắt, bọn tay sai của các quan trên, lí trưởng cứ thế lộng hành, nhà chị Dậu thì ngày càng khó khăn. Chị phải bán khoai, bán chó, bán cả đứa con gái lớn cho nhà lí trưởng để nộp nốt sưu cho chồng của mình. Anh Dậu ngày càng đau ốm, sau trận đánh trói ấy, anh càng yếu dần, nếu bị chúng đánh trói nữa tưởng rằng sẽ chết mất. Và chị Dậu đang tìm mọi cách để bảo vệ chồng của mình. Đoạn trích nổi bật với cảnh cai lệ và chị Dậu đối đầu khi tên tay sai đến thúc sưu nhà chị rất gay cấn và đúng như nhan đề “tức nước vỡ bờ”.
Chị Dậu là một người phụ nữ yêu thương chồng hết mực, chị chăm sóc chồng đang ốm vì vừa bị bọn cường hào lí trưởng đánh đập. Chị cũng thương con mình sâu sắc. Chị tất tả chạy ngược xuôi vay được vài nắm gạo và nấu bát cháo loãng cho chồng ăn lại sức. Từ cách chị chăm chồng, đỡ chồng dậy và cách xưng hô: “Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột” đã thể hiện sự dịu dàng vốn có trong mỗi người phụ nữ Việt Nam ngày trước.
Chị trở thành trụ cột trong gia đình, gánh chịu mọi đau khổ, sự túng quẫn vì sưu thuế. Chị đổ mồ hôi sôi nước mắt để cứu anh Dậu. Chăm sóc anh nhưng lúc ấy bất ngờ tên tay sai của lí trưởng và cai lệ xông vào, trên tay là roi, thước và dây thừng, hò hét bắt anh chị phải nộp sưu thuế, Anh Dậu quá khiếp đảm đến nỗi suýt ngất, chỉ còn mình chị Dậu chạy vạy, đối phó với giai cấp thống trị. Thoạt đầu, chúng định lôi anh Dậu đi nhưng không hành hung mà chúng lại chửi bới mỉa mai đến nỗi chị Dậu vẫn van xin “cháu xin ông” để khất hạn nộp sưu nhưng rồi chúng sấn đến đánh chị thì đã chạm đến giới hạn cuối cùng, tính cách của “người đàn bà lực điền” ấy mới bộc lộ một cách mạnh mẽ và cứng cỏi hơn. Vậy nên người ta mới nói có áp bức bất công thì ắt hẳn có sự đấu tranh.
Chị Dậu đang đứng lên để bảo vệ gia đình và cuộc sống của mình. Chị liều mạng chống cự lại những cú đấm thô bạo bằng những lí lẽ sắc bén: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”. Không còn xưng hô tôn trọng với những kẻ độc ác và bạo tàn, chị quên đi vị thế của mình chỉ là những người nông dân thấp hèn, chị đứng lên ngang hàng với những kẻ bạo tàn để đấu tranh. Với tình yêu thương của một người vợ, chị đã chống trả lại bọn chúng. Hai hàm răng nghiến chặt: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!” đầy thách thức và đe dọa. Điều đó thể hiện thái độ căm giận lũ chó đểu, khinh bỉ đến cao độ, đồng thời khẳng định tư thế sẵn sàng chiến đấu của chị, không thèm đấu lí nữa mà thẳng tay trừng trị chúng.
Một hành động phản kháng rất mạnh mẽ, chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi đầu ra cửa “Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Cách miêu tả rất độc đáo của Ngô Tất Tố đã khiến cuộc đối đầu của chị và tên cai lệ trở nên sinh động, trong xã hội bất công ấy, một cuộc chiến công lí diễn ra để trừng trị kẻ ác đáng làm người ta khâm phục. Có lẽ vì người nông dân đặc biệt là người phụ nữ họ đã phải chịu nhiều bất công nên khi bị dồn đến đường cùng, họ phản kháng với mục đích tự vệ chính đáng. Tuy vậy, hành động của chị Dậu chỉ là một cá nhân chứ chưa phải là cả xã hội cùng đấu tranh để giải phóng giai cấp. Có lẽ theo quy luật, càng nhiều áp bức thì sẽ càng xuất hiện đấu tranh.
Nhân vật cai lệ là nhân vật tiêu biểu cho lũ tay sai, công cụ đàn áp đắc lực của giai cấp thống trị. Hắn là một tên nghiện ngập, để xác định vai trò của mình trong việc đi thúc sưu thuế, hắn đánh người, trói người vô tội vạ. Trong xã hội ấy, cai lệ chỉ là tay sai, là tên đứng ra hành hạ người dân nghèo thay lũ quan lại tham lam và độc ác.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một đoạn văn giàu ý nghĩa hiện thực. Ngô Tất Tố xây dựng nhân vật chị Dậu là một người phụ nữ dịu dàng những cũng quyết đoán, thương yêu chồng con nhưng cũng đầy đủ sức mạnh để chiến đấu. Qua đoạn trích, ta thấy nhà văn đã dành tình yêu thương và sự đồng cảm sâu sắc cho chị Dậu cùng với đó lên án xã hội bất công và tàn ác.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 2Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 3
Tức nước vỡ bờ là chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đèn. Nếu đặt vào mạch chung của cuốn tiểu thuyết thì đây là chương truyện có kịch tính rất cao. Mười bảy chương truyện trước đó đã thuật lại không biêt bao nhiêu là cảnh cùng cực, khốn đốn của vợ chồng chị Dậu trong những ngày sưu thuế.
Nhà đã nghèo “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”, đến vụ thuế, anh Dậu lại ốm liệt giường. Cho nên, vì suất sưu của anh Dậu mà chị Dậu phải bán chó, bán con, phải chịu đựng những lời rủa sả cay độc của vợ chồng Nghị Quế và cũng từng phải “nếm” cả những “quả phật thủ’* của bọn lính tráng và người nhà lí trường. Cũng vì suất sưu ấy mà anh Dậu bị đánh, bị trói giữa lúc ốm đau. Chế độ thực dân, phong kiến chẳng những đánh thuế vào người sống, mà còn dựng cả người chết dậy mà đánh thuế. Cho nên, nộp xong suất sưu của anh Dậu, chị Dậu những tưởng đã trả được “món nợ nhà nước”, nào ngờ, bọn hào lí cho biết chị còn phải nộp suất sưu của “chú Hợi” đã chết từ năm ngoái. Thế là chị Dậu bị đẩy tới chỗ cùng đường. Anh Dậu lại tiếp tục bị đánh, bị trói cho đến ngất xỉu đi như chết. Nửa đêm, người ta đem anh Dậu rũ rượi như một cái xác trả về cho chị Dậu. Nhờ có hàng xóm đổ đến giúp, chị Dậu đã cứu sống được chồng. Nhưng trời vừa sáng, cai lệ và người nhà lí trưởng “đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng”, Tính mạng của anh Dậu bị đe dọa nghiêm trọng. Thế là “tức nước vỡ bờ”, chị Dậu đã vùng lên chống trả một cách quyết liệt. Đặt nhân vật vào tình huống đầy kịch tính ấy, chương truyện vừa phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của lũ tôi tớ sai của bọn thực dân, phong kiến, vừa làm nổi bật những phẩm chất, tính cách tốt đẹp của người phụ nữ nông dân Việt Nam.
Bộ mặt thất thần, tàn ác của lũ tôi tớ tay sai dưới chế độ thực dân, phong kiến được thể hiện qua hình ảnh cai lệ và tên người nhà lí trưởng. Cai lệ là một thứ chức tước hẳn hoi. Trong tay hắn cũng có lính tráng để sai bảo. Nhưng làm “cai” thì chưa phải là quan. Đó chỉ là thứ chức tước hạng bét của nhà binh dưới chế độ cũ. Thực chất, cai lệ cũng là một loại đầy tớ, chân tay của quan phủ, quan huyện ngày xưa. Người nhà lí trưởng thì tuyệt nhiên không có chức quyền gì. Y đúng là đầy tớ của bọn thôn xóm. Thậm chí y có thể là một người nghèo. Có lần chị Dậu từng năn nỉ hắn: “Bạn nghèo với nhau, bác nói khéo với ông Lí cho tôi”. Nhưng hắn “hăm hăm vác gậy” bỏ đi mà không quên mát mẻ: “Tôi không dám làm bạn với nhà chị.” Cai lệ và người nhà lí trưởng tuy thân phận, địa vị khác nhau, thái độ của chúng cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng sự bất nhân, tàn ác thì không đứa nào chịu thua kém đứa nào. Chỉ cần một ít chi tiết nghệ thuật, chân dung của chúng đã được nhà văn khắc họa hết sức sắc sảo.
Giữa nhà chị Dậu, đúng hơn là những túp lều giống như nơi chứa phân tro, trong đó chỉ có một người đàn ông vừa thoát chết, đang “ốm rề rề”, một người đàn bà nuôi con mọn với ba đứa trẻ, cai lệ và người nhà lí trưởng hiện lên hệt một bọn đầu trâu, mặt ngựa đằng đằng sát khí. Chúng hùng hùng, hổ hổ “sầm sập tiến vào” nhà chị Dậu. Tay chúng cầm toàn những thứ dụng cụ đánh người để uy hiếp những người yếu bóng vía, nào “roi song”, “tay thước”, nào “dây thừng”. Vừa vào đến nhà, cai lệ lập tức ra oai. Hắn “gõ đầu roi xuống đất”. Trước chị Dậu và anh Dậu hắn tỏ ra rất hách dịch. Hắn gọi anh Dậu là “thằng”, chị Dậu là “mày”, xưng với họ là “ông”, là “cha mày”. Cai lệ động mở mồm là “thét”, “quát”. Hắn quát chị Dậu: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?”. Và khi “quát”, khi “thét”, cai lệ lúc thì “trợn hai mắt”, lúc thì “giọng hầm hè”. Người nhà lí trưởng không hách dịch như thế, nhưng hắn mát mẻ, xúc xiểm cai lệ để tên này càng ngạo ngược hơn: “Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí tôi thì không có quyền giám cho chị khất một giờ nào nữa”.
Anh Dậu đang ốm đau, lại bị trói cho đến ngất xỉu đi, vừa thoát chết, vậy mà cả cai lệ và người nhà lí trưởng chẳng hề có một chút động tâm. Vào nhà, nhìn thấy anh Dậu “run rẩy cất bát cháo… mới kề vào đến miệng”, cai lệ liền buông lời rủa sả: “Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à?”. Thấy anh Dậu vì sợ quá mà ”lăn đùng ra đó, không nói được câu gì”, người nhà lí trưởng “cười một cách mỉa mai: Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy”, cả hai tên bất nhân ấy không cần biết đến gia cảnh của chị Dậu. Chúng không để lọt tai bất kì một lời van xin nào cùa người đàn bà ấy. “Cai lệ không để cho chị Dậu được nói hết câu…! Hắn chỉ một mực thúc giục: “Nộp tiền sưu! Mau!”. Rồi hắn đe dọa “Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi”. Thái độ của hắn ngày càng hung hãn. Hắn sai người nhà lí trưởng trói anh Dậu. Thấy tên này “hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì” hắn “đùng đùng” “giật phắt cái thừng”, “chạy sầm sập” đến chỗ anh Dậu…
“Sầm sập tiến vào”, “sầm sập đến”, “sấn đến”, “nhảy vào”; “gõ đầu roi xuống đất”, “thét”, “quát”, “mỉa mai”, “hằm hè”, “đùng đùng” “bịch luôn vào cái ngực chị Dậu mấy bịch”, “tát cả vào mặt chị một cái đánh đốp”, chân dung của cai lệ và người nhà lí trưởng được khắc họa bằng những chi tiết điệu bộ, giọng nói và hành vi như vậy. Ngô Tất Tố không dùng bất kì một chi tiết nào để miêu tả suy nghĩ của chúng. Đó chính là sự sắc sảo, tinh tế của ngòi bút nhà văn. Bởi vì, lũ đầu trâu, mặt ngựa, xem việc đánh người như là việc tự nhiên, chẳng bao giờ thấy động lòng trắc ẩn, thì làm gì biết suy nqhĩ. Bỏ đi những chi tiết miêu tả nội tâm, Ngô Tất Tố vừa làm nổi bật bản chất bất nhân, thất đức, bản chất cầm thú của bọn đầy tớ, tay sai, vừa tạo ra kịch tính căng thẳng cho mạch truyện.
Trong tiểu thuyết Tắt đèn, chị Dậu được miêu tả như một người phụ nữ rất mực dịu dàng. Vì bị áp bức bóc lột, chị Dậu đành chịu đựng, nhẫn nhục, và trong nhiều trường hợp, chị là người có thể nhẫn nhục, chịu đựng. Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối, chỉ biết than khóc. Thông minh, sắc sảo, đảm đang, tháo vát, chị Dậu còn tiềm tàng một khả năng phản kháng. Chả thế mà ngay giữa đình làng, trước mặt bọn hào lí, chị đã dám “tru tréo”, kêu to lên sự bất nhân của chế độ sưu thuế thực dân, phong kiến: “Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu, hở trời”. Bị quăng từ đình làng về, rồi được cứu sống, anh Dậu chỉ còn biết khóc em, khóc cái Tí, khóc cho số phận của anh. Trái lại, chị Dậu tỏ thái độ bất cần. Chị bình tĩnh khuyên giải chồng: “Còn như mấy đồng tiền sưu, tuy nó nóng thật, nhưng nó chưa kịp thì khất. Thịt người tanh, chả ai ăn được.Thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ, không phải lo lắng gì cả.”
Cảnh ”tức nước vỡ bờ” miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí cúa một tính cách nhất quán. Chị Dậu có thể nhẫn nhục, chịu đựng, nhưng khi bị đẩy tới chân tường, thì cũng biết chống trả quyết liệt thể hiện một khả năng phản kháng tiềm tàng. Trước thái độ hung hăng, những lời hách dịch của cai lệ, chị Dậu “run run”. Chị sợ thì ít, mà lo cho chồng thì nhiều. Chị gọi cai lệ “ông”, tự xưng là cháu. Chị van xin, cầu khẩn bẳng giọng “cố tha thiết”: “Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…”, “Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng thế thôi. Xin ông trông lại!”. Đến khi thấy tính mạng của chồng bị đe dọa, thái độ của chị Dậu thay đổi hoàn toàn. Chị vẫn cố van xin, nhưng vội vàng đặt đứa con đang bế xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay cai lệ, không đe hắn đụng tới anh Dậu. Đang xưng hô “ông – cháu”, chị Dậu chuyển qua “ông – tôi” với cai lệ. Người đàn bà uất ức đã liều mình đứng dậy tự đặt ngang hàng với cai lệ để cảnh báo hắn: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”. Thái độ của chị Dậu ngày càng quyết liệt. Người đàn bà dịu dàng bỗng trở nên đáo để. Chị hạ cai lệ xuống thứ “mày” và ngang nhiên thách thức: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”.
Chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ – Chị “túm lấy cổ” cai lệ “ấn dúi ra cửa.” Cai lệ ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”. Tên người nhà lí trưởng cũng bị chị Dậu “túm tóc lẳng сho một cái, ngã nhào ra thềm”. Giọng văn cùa Ngô Tất Tố trở nên hả hê. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh chị Dậu trở nên khỏe khoắn, quyết liệt bao nhiêu, thì hình ảnh bọn tay sai hung ác trở nên nhỏ bé, hèn hạ, nực cười và hài hước bấy nhiêu. Thấy chị Dậu quá quyết liệt, anh Dậu vừa run vừa kêu: “U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội”. Nhưng “tức nước” thì tất yếu “vỡ bờ”. Nghe anh Dậu can, chị Dậu càng phẫn uất: “Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”. Câu nói mộc mạc đầy phẫn uất ấy giống như lời tuyên ngôn hùng hồn cho quy luật: Có áp bức, dứt khoát có đấu tranh.
Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh lòng căm hờn, uất hận bị dồn nén đến mức không thể chịu đựng được nữa. Đó còn là sức mạnh của tình thương yêu chồng con vô bờ bến. Một người đàn bà lúc nào cũng chỉ nghĩ tới chồng, tới con, nhiều lần lấy thân của mình để che chở đòn roi cho chồng, vì chồng con, người đàn bà ấy sẵn sàng “thà ngồi tù”.
Nguyễn Tuân gọi chân dung chị Dậu trong “Tắt đèn” là “bức chân dung lạc quan”. Nguyễn Tuân quả quyết rằng ông đã gặp chị Dậu trong “một đám đông phá thóc của Nhật trong những ngày huyện kì Tổng khởi nghĩa”. Dưới ngòi bút của Ngô Tât Tố đã khẳng định tài năng miêu tả nhân vật chị Dậu vừa hiện lên sống động giống như người có thật, vừa thể hiện quy luật tất yếu cùa đời sống hiện thực. Cho nên, chị Dậu trong tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố có khả năng bước ra khỏi trang văn để đến với cuộc đời và sống mãi trong đời sống tinh thần của chúng ta.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 1Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 2
Ngô Tất Tố (1893 – 1954), quê ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Đông Anh, Hà Nội; là một nhà Nho sống ở nông thôn, có vốn hiểu biết Hán học khá sâu rộng, ông nổi tiếng trên lĩnh vực báo chí và văn chương trong giai đoạn đầu thế kỉ XX. Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Ngô Tất Tố và trong trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Tác giả lấy đề tài từ một vụ thu thuế hàng năm ở một làng quê Bắc Bộ, qua đó phản ánh số phận bi thảm của nông dân và bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị trong xã hội đương thời. Có thể nói tác phẩm Tắt đèn là bức tranh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Trong tác phẩm Tắt đèn, bằng ngòi bút tả thực sắc sảo, nhà văn đã vẽ lên chân dung sinh động của một loạt nhận vật. Từ vợ chồng lão Nghị Quế keo kiệt bất nhân đến bọn cường hào tham lam hống hách. Từ một quan “phụ mẫu” oai vệ mà bỉ ổi đến bọn tay sai đầu trâu mặt ngựa. Mỗi đứa một vẻ nhưng đều giống nhau ở bản chất tàn ác và tư cách đê tiện. Những nhân vật phản diện này tiêu biểu cho tầng lớp phong kiến thống trị ở nông thôn lúc bấy giờ.
Đặc biệt, Ngô Tất Tố đã thành công xuất sắc trong việc xây dựng hình tượng điển hình về người phụ nữ nông dân qua nhân vật chị Dậu. Nhà văn miêu tả chân thực và cảm động về số phận tủi cực của người nông dân bị áp bức, bóc lột, bị dồn đến bước đường cùng. Nhà văn chân thành ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong hoàn cảnh sống tối tăm, ngột ngạt. Thái độ yêu ghét của Ngô Tất Tố thể hiện rất rõ ràng qua từng trang viết. Tình cảm yêu mến, trân trọng mà ông dành cho người nông dân khiến ông thật sự là tri âm, tri kỉ của họ. ông cũng không giấu diếm sự khinh bỉ và căm ghét đối với bọn thống trị sâu mọt ở nông thôn. Về nghệ thuật, Tắt đèn được coi là tiểu thuyết hiện thực xuất sắc mà thành công lớn nhất là tác giả đã dựng nên một thế giới nhân vật sinh động, trong đó có những điển hình độc đáo.
Đoạn Tức nước vỡ bờ trích từ chương XVIII của tác phẩm, nội dung xoay quanh những biến động ghê gớm xảy ra với gia đình chị Dậu trong mùa sưu thuế. Vụ thuế đang trong thời điểm gay gắt nhất. Quan trên sắp về tận làng để đốc thuế. Bọn tay sai hung hãn xông vào nhà những người chưa nộp thuế để đánh trói, bắt bớ và giải ra đình tiếp tục cùm kẹp, tra khảo. Chị Dậu đã phải bán khoai, bán chó, bán cả đứa con gái lớn để nộp sưu cho chồng, nhưng bọn hào lí ngang ngược lại bắt anh Dậu phải nộp cả suất của người em đã chết từ năm ngoái. Thành thử, anh Dậu vẫn cứ là người thiếu thuế, bọn chúng chắc chắn sẽ không buông tha. Đã thế anh Dậu lại đang ốm rề rề sau trận đòn, tưởng chết đêm qua. Nếu bị chúng đánh trói lần nữa thì mạng sống của anh khó mà giữ được. Vấn đề quan trọng nhất đối với chị Dậu giờ đây là làm sao bảo vệ được chồng trong tình thế nguy ngập này. Đoạn trích tiếp nối câu chuyện trên.
Qua đoạn trích, tác giả phơi bày và lên án bản chất tàn ác bất nhân của chế độ thực dân phong kiến lúc bấy giờ và phản ánh tình cảnh đau thương của nông dân cùng quy luật có áp bức có đấu tranh. Nhà văn giúp chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng của người phụ nữ nông dân nghèo khổ. Trong đoạn trích có hai nhân vật chính là chị Dậu và tên cai lệ. Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn hào lí trong làng đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cố gắng hết sức để cứu chồng nhưng cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự bắt bớ, hành hạ. Có thấy được tình thương yêu chổng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình dung được sự dũng cảm quên mình của chị. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt tia lịa cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt và giọng nói của người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình cảm tha thiết đến nao lòng.
Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế. Chồng bị đánh đập, gông cùm. Một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa bưng bát cháo kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập sấn vào với những roi song, tay thước và dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá khiếp đảm, anh Dậu đã lăn đùng ra không nói được câu gì, chỉ còn chị Dậu một mình đối phó với lũ ác nhân. Chị Dậu đã đương đầu với bọn nha dịch tay sai để bảo vệ chồng như thế nào?
Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai, đe doạ thì chị Dậu vẫn nhũn nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Bọn đầu trâu mặt ngựa hung hãn nhân danh phép nước, người nhà nước để ra tay, còn chồng chị là hạng cùng đinh đang có tội (!) cho nên chị phải van xin. Vả lại, kinh nghiệm lâu đời đã thành bản năng của người nông dân thấp cổ bé họng là phải biết rõ thân phận mình. Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ dám năn nỉ, khơi gợi lòng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tĩnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định bắt trói anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ van nài: Cháu xin ông! Mọi lời nói, hành động của chị Dậu đều không ngoài mục đích để bảo vệ chồng.
Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật sự bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm thô bạo rồi sấn đến trói anh Dậu thì chị tức quá không thể chịu được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất công. Điều đó đúng với quy luật có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu. Lúc đầu, chị cự lại tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Thực ra, chị chỉ nói đến lòng nhân đạo tối thiểu của con người. Chị không còn xưng cháu và gọi tên cai lệ bằng ông nữa mà xưng là tôi – ông, ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.
Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu vụt trở thành ngang hàng với những kẻ xưa nay vẫn đè đầu cưỡi cổ mình. Câu nói của chị là lời cảnh cáo cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu đi. Lòng yêu thương chồnng tha thiết đã thúc đẩy chị phải hành động chống trả quyết liệt lũ tay sai tàn ác đang cố tình phá nát gia đình chị. Chị không chấp nhận để chồng mình bị hành hạ thêm một lần nữa. Hành động chống trả bọn tay sai diễn ra thật bất ngờ nhưng thực ra mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới vẻ ngoài cam chịu nhẫn nhục thường ngày của chị. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức lên đến tột đỉnh khiến cho thái độ phản kháng bùng lên dữ dội.
Khi tên cai lệ dã thú ấy tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi cứ hung hăng sấn tới chỗ anh Dậu, thì chị đã nghiến hai hàm răng thách thức: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! Không còn ông – cháu, tôi – ông gì nữa, chị chuyển phắt sang xưng bà và gọi tên cai lệ là mày. Điều đó thể hiện thái độ căm giận, khinh bỉ đến cao độ, đồng thời khẳng định tư thế của chị là sẵn sàng đè bẹp đối phương. Chị Dậu là một lò lửa đang bùng cháy dữ dội. Chị không thèm đấu lí với tên cai lệ bất lương mà thẳng tay trừng trị hắn. Tiếp sau lời cảnh cáo đanh thép là hành động phản kháng mạnh mẽ. Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Đoạn văn miêu tả cuộc đối đầu giữa chị Dậu và lũ người độc ác được tác giả miêu tả thật sinh động và thu vị. Trong xã hội mà tội ác hoành hành, còn gì hả hê hơn khi mọi người được chứng kiến cái ác bị trừng trị đích đáng?! Do đâu mà chị Dậu có sức mạnh lạ lùng một lúc quật ngã hai tên tay sai hung hãn như vậy? Đó là sức mạnh của lòng căm hờn mà cái gốc của lòng căm hờn ấy lại chính là tình yêu thương và ý thức bảo vệ chồng con của người đàn bà nghèo khổ. Khi rón rén bưng cháo cho chồng và theo dõi xem chồng ăn có ngon miệng không, khi hạ mình van xin kẻ ác và khi nghiến răng quật ngã chúng, trước sau, lúc nào chị Dậu cũng vì người chồng đang đau ốm. Tình yêu chồng, thương con cộng với tinh thần phản kháng âm ỉ bấy lâu đã thổi bùng ngọn lửa phản kháng trong lòng chị. Nỗi sợ cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, chỉ còn lại nhân cách cứng cỏi của một con người chân chính. Hành động chống đối bộc phát đó chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương mãnh liệt trong trái tím người phụ nữ dường như sinh ra để suốt đời nhường nhịn, hi sinh.
Tuy vậy, sự phản kháng của chị Dậu mới chỉ là hành động tức nước vỡ bờ của một cá nhân chứ chưa phải là hành động vùng lên phá vỡ áp bức bất công để tự giải phóng của một giai cấp, một dân tộc. Thế nhưng nó cũng chứng minh cho quy luật có áp bức, có đấu tranh. Áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt. Chứng kiến cảnh xô xát giữa vợ mình với tên cai lệ và người nhà lí trưởng, anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại nằm xuống, vừa run lại vừa kêu: – U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta là phải tù, phải tội. Anh Dậu cố nhắc cho vợ nhớ cái sự thật phổ biến trong xã hội lúc bấy giờ, nhưng chị Dậu không chấp nhận điều vô lí đó. Chị phẫn uất hét lên: Thà ngồi tù, để chúng nó làm tình làm tội mãi thế tôi chịu không được… Câu nói này khẳng định chị Dậu không muốn cúi đầu cam chịu mãi cảnh áp bức, bất công.
Ý nghĩa của câu tục ngữ tức nước vỡ bờ qua ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố đã được thể hiện thật sống động và đầy thuyết phục. Tuy tác giả khi đó chưa giác ngộ cách mạng và tác phẩm kết thúc bằng cảnh ngộ bế tắc của chị Dậu nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rằng Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “xui người nông dân đấu tranh cách mạng…”. Bằng cảm quan hiện thực mạnh mẽ, Ngô Tất Tố đã cảm nhận được xu thế “tức nước vỡ bờ” và sức mạnh to lớn khôn lường của nó. Có thể nói đoạn trích này đã dự báo cơn bão táp của quần chúng nông dân nổi dậy dưới sự tập hợp, lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ sẽ hất phăng chế độ thực dân phong kiến tham tàn, mục nát.
Nhân vật cai lệ trong đoạn trích tiêu biểu cho lũ tay sai chuyên nghiệp, là công cụ đàn áp đắc lực của giai cấp thống trị. Để khẳng định vai trò của mình trong vụ thuế, hắn đánh người, trói người vô tội vạ. Trong bộ máy thống trị ở nông thôn, tên cai lệ này chỉ là một gã tay sai mạt hạng. Hắn hung dữ, sẵn sàng gây tội ác mà không chùn tay vì không hề bị ai ngăn chặn. Hắn vênh váo tự cho mình là đại diện cho nhà nước. Hắn nhân danh phép nước để làm những điều tàn ác đối với người nghèo. Vì vậy, có thể nói, tên cai lệ vô danh đó là hiện thân đầy đủ nhất của cái guồng máy “nhà nước” bất nhân lúc bấy giờ. Tuy chỉ xuất hiện trong một đoạn văn ngắn nhưng nhân vật cai lệ được ngòi bút tả thực của tác giả khắc họa nổi bật, có giá trị khái quát cao.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một đoạn văn hay, tiêu biểu cho bút pháp tả thực tài tình của Ngô Tất Tố. Ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả và đối thoại của nhân vật rất đặc sắc. Đó là lời ăn tiếng nói bình dị, tự nhiên của đời sống hằng ngày. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ riêng. Ngôn từ của tên cai lệ thì thô lỗ, đểu cáng. Lời lẽ của chị Dậu khi thì thiết tha mềm mỏng, khi đanh thép quyết liệt. Lời lẽ của bà cụ hàng xóm thì thật thà, hiền hậu… Lời ăn tiếng nói của nông dân được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn, rất hợp cảnh, hợp tình. Nhà văn Ngô Tất Tố đã dành cho nhân vật chính là chị Dậu tình cảm yêu thương, thông cảm và trân trọng. Những tình tiết sinh động và đầy kịch tính trong đoạn trích đã góp phần hoàn thiện tính cách của người phụ nữ nông dân đẹp người, đẹp nết.
Chị Dậu mộc mạc, hiền dịu, vị tha, sống khiêm nhường, biết nhẫn nhục chịu đựng… nhưng hoàn toàn không yếu đuối, trái lại vẫn có một sức sống mạnh mẽ, một tinh thần phản kháng tiềm tàng. Khi bị đẩy tới bước đường cùng, chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt. Đó là thái độ cứng còi, bất khuất, dám đối đầu với cái ác trong xã hội.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” số 1
Đây là một đoạn trích mang giá trị hiện thực sâu sắc và thành công bởi nghệ thuật tạo tình huống truyện có tính kịch, xây dựng nhân vật thông qua miêu tả chân thật, sinh động về ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, tâm lí…
Đăng bởi: Hồng Vũ
Từ khoá: 10 Bài văn phân tích đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố
Văn Mẫu Lớp 11: Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao (6 Mẫu + Sơ Đồ Tư Duy) Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao
I. Mở bài
– Giới thiệu hình tượng nhân vật trung tâm trong Vang bóng một thời của tác giả tài hoa Nguyễn Tuân: Những nho sĩ cuối mùa tuy thất thế nhưng vẫn giữ thiên lương và sự trong sạch của tâm hồn
– Huấn Cao trong Chữ người tử tù (in trong VBMT) là một trong số đó. Hiện lên trong tác phẩm là một con người mang tài hoa, khí phách và thiên lương
II. Thân bài
1. Huấn Cao- người nghệ sĩ tài ba
– Huấn Cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp.
– Tài năng của ông đã được nói tới một cách kính nể qua cuộc nói chuyện giữa Quản ngục và thơ lại:
+ Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người có tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”
– Tài năng ấy được thể hiện qua thái độ sùng kính của Quản ngục: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời
– Sự tài hoa thể hiện trong cảnh cho chữ: “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ”
⇒ Huấn Cao thực sự đã trở thành một người nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp
2. Huấn Cao – con người của khí phách hiên ngang, bất khuất
– Khí phách hiên ngang thể hiện trong cuộc nói chuyện của quản ngục:
“dọc ngang nào biết trên đầu có ai”
coi nhà tù thực dân như chốn không người, “ra tay tháo cũi xổ lồng như chơi”, có tài bẻ khóa vượt ngục
“văn võ kiêm toàn”
⇒ lí tưởng sống cao đẹp, dám chống lại triều đình mà ông căm ghét, khinh bỉ.
– Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa chống lại triều đình.
– Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông:
⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho
– Khí phách thể hiện qua thái độ thán phụccủa quản ngục và thầy thơ lại
– Khí phách thể hiện qua thái độ của bọn lính: kiêng nể “tên này nguy hiểm và ngạo ngược nhất trong bọn”
– Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”
⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.
– Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”.
⇒ Không khuất phục trước cường quyền.
⇒ khí phách của một người anh hùng.
3. Huấn Cao – người mang thiên lương đáng trọng
– Tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ” ⇒ trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỉ.
– Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân
– Khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ
⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.
– Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa … trong thiên hạ”
⇒ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.
⇒ Huấn Cao là một anh hùng – nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.
4. Sự thống nhất của tài hoa, khí phách, thiên lương làm nên cảnh cho chữ – “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
– Hình tượng Huấn Cao đang “dậm tô nét chữ” trên “tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ” trong hoàn cảnh “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” ở nơi tù ngục tối tăm ⇒ kết tinh cho tài hoa, khí phách, thiên lương
– thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn
5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao
– Đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo
– Nghệ thuật tương phản đối lập
– Ngôn ngữ miêu tả nhân vật giàu chất tạo hình.
III. Kết bài
– Khái quát những nét nghệ thuật tiêu biểu xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao
– Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về nhân vật: Huấn Cao là một tấm gương về vẻ đẹp toàn tài con người hôm nay hướng tới
I. Mở bài
– “Vang bóng một thời” gồm mười một truyện viết về một thời đã xa, nay chỉ còn vang bóng. Qua tập truyện, Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự bất hòa sâu sắc đối với xã hội buổi giao thời cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX ở nước ta và ca ngợi những nhà nho tài hoa không chịu vứt bỏ lương tâm, chạy theo danh lợi, vẫn giữ thiên lương cao đẹp.
– Một trong những nhân vật tiêu biểu là Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”.
II. Thân bài
1. Con người mang nét đẹp của tư thế, khí phách
Bằng một thứ văn xuôi điêu luyện gợi được không khí cổ kính của một thời đã qua, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công những nét tính cách nhân vật.
a. Một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất.
– Tự trọng, không ham quyền và hám lợi: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
– Hiên ngang bất khuất: “những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người tu, người ta cũng còn chẳng biết ai nữa…”
b. Chí lớn không thành, coi thường gian khổ, kể cả cái chết
– Chống lại triều đình, bị bắt giam tử ngục, vẫn coi thường: “Đến cái cảnh chết chém, ông cũng chẳng sợ nữa …”
– Có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng: “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt của viên quản ngục, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, dù đang bị giam cầm”.
c. Khinh bỉ những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị.
– Dưới mắt ông, chúng chỉ là là tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc, giữa một dõng cặn bã.
– Thái độ và ngôn ngữ nhân vật cực kì khinh bạc. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao có cần gì nữa không, ông đã trả lời rất thản nhiên: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Khí phách đó, tư thế đó luôn luôn hiên ngang lồng lộng giữa cái nền xám xịt của ngục tù.
2. Con người mang nét đẹp của tâm hồn, tài hoa
a. Tâm hồn cao quý
Huấn Cao ca ngợi thiên lương, tức là cái bản chất tốt đẹp của con người: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của nhân vật Huấn Cao vậy.
b. Yêu cái đẹp và cảm thông với người yêu quý cái đẹp.
Huấn Cao kiêu bạc là thế, nhưng khi hiểu được tấm lòng chân thành của ngục quan, ông vui vẻ nhận cho chữ, mà còn tỏ ra cảm động: “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
c. Rất mực tài hoa
– Thư pháp (phép viết chữ, nghệ thuật viết chữ Hán) vốn là một thú tao nhã của người xưa, bên cạnh cầm, kỳ, thi, họa. Ông Huấn có tài viết chữ đẹp, “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm.
– Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỷ: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Và lần này như một ngoại lệ, ông cho chữ viên quản ngục, vì “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người”.
– Cái cao đẹp (viết chữ vốn là một việc thanh cao, long trọng, với lụa tràng, mực thắm, nét chữ vuông tươi tắn) đối lập với cái dơ bẩn (cảnh buồng nhà ngục tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián).
– Hình ảnh kì vĩ của người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ đối lập với hình ảnh co ro của thầy thơ lại run run bưng chậu mực và của viên quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ… chắp tay vái người tù một vái.
3. Đánh giá về hình tượng Huấn Cao
– Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù tượng trưng cho cái đẹp của khí phách, của tài hoa hòa hợp cái đẹp của thiên lương.
– Nhân vật Huấn Cao, cũng như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một thời, nhất thiết phải là một con người tài hoa. Song ở Huấn Cao, bên cạnh cái tài hoa, còn có vẻ đẹp khí phách của một con người có trách nhiệm đối với thời cuộc và cái đẹp của thiên lương. Đó cũng là nét độc đáo của hình tượng nhân vật Huấn Cao, so với các nhân vật khác trong Vang bóng một thời.
III. Kết bài
– Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử tù” mang tính cổ kính qua hệ thống ngôn ngữ, lối suy nghĩ, cung cách đối xử… toát lên không khí của một thời mà nay đã thành vang bóng. Nghệ thuật ấy cũng mang tính hiện đại với nhưng đoạn phân tích ý nghĩa sâu kín, diễn biến tâm lí nhân vật một cách tinh tế.
– Nhân vật Huấn Cao, con người có trách nhiệm đối với đất nước, hiện lên trong truyện với một thái độ tôn sùng của Nguyễn Tuân. Đây cũng là sự giãi bày kín đáo niềm “… khát khao theo đuổi một lý tưởng cao cả của người thanh niên Nguyễn Tuân khi mới bước chân vào đời”. (Trường Chinh).
I. Mở bài
– Giới thiệu hình tượng nhân vật trung tâm trong “Vang bóng một thời” của tác giả tài hoa Nguyễn Tuân: Những nho sĩ cuối mùa tuy thất thế nhưng vẫn giữ thiên lương và sự trong sạch của tâm hồn
– Huấn Cao trong Chữ người tử tù (in trong Vang bóng một thời) là một trong số đó. Hiện lên trong tác phẩm là một con người mang tài hoa, khí phách và thiên lương.
II. Thân bài
1. Huấn Cao – người nghệ sĩ tài ba
– Tài năng của ông đã được nói tới một cách kính nể qua cuộc nói chuyện giữa quản ngục và thơ lại: “Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”
– Tài năng ấy được thể hiện qua thái độ sùng kính của Quản ngục: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời”.
– Sự tài hoa thể hiện trong cảnh cho chữ: “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ”.
2. Huấn Cao – con người của khí phách hiên ngang, bất khuất
– Khí phách hiên ngang thể hiện trong cuộc nói chuyện của quản ngục:
“Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”
Coi nhà tù thực dân như chốn không người: “ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi”, có tài bẻ khóa vượt ngục”
– Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: “Thản nhiên rũ rệp trên thang gông…”.
– Khí phách thể hiện qua thái độ của bọn lính: kiêng nể “tên này nguy hiểm và ngạo ngược nhất trong bọn”
– Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”
– Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”.
3. Huấn Cao – người mang thiên lương đáng trọng
– Tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ” là con người trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỷ.
– Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân. Đến khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ
– Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa … trong thiên hạ”
4. Sự thống nhất của tài hoa, khí phách, thiên lương làm nên cảnh cho chữ – “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
– Hình tượng Huấn Cao đang “dậm tô nét chữ” trên “tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ” trong hoàn cảnh “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” ở nơi tù ngục tối tăm.
– Huấn Cao đã trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn
5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao
Đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo
Nghệ thuật tương phản đối lập
Ngôn ngữ miêu tả nhân vật giàu chất tạo hình.
III. Kết bài
Khái quát những nét nghệ thuật tiêu biểu xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao
Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về nhân vật: Huấn Cao là một tấm gương về vẻ đẹp toàn tài con người hôm nay hướng tới
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Chữ người tử tù.
Dẫn dắt giới thiệu đến nhân vật chính của tác phẩm: Huấn Cao.
II. Thân bài
1. Vẻ đẹp của tài năng và khí phách
– Tài năng hơn người:
Không chỉ có tài viết chữ “rất nhanh rất đẹp” mà còn có tài “bẻ khóa vượt ngục” – một con người văn võ toàn tài.
Người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp: cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
– Khí phách hiên ngang:
Tự do trong suy nghĩ, hành động: “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái”, thái độ “lãnh đạm” trước sự đe dọa của tên lính áp giải”.
Thái độ khinh bạc, coi thường quyền lực: Dưới mặt Huấn Cao, bọn lính coi ngục chỉ là là lũ tiểu nhân đang thị oai nên thời ơ, coi thường. Thản nhiên trước thái độ biệt đã của viên quản ngục, trả lời quản ngục trả lời: “Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng bước chân vào đây nữa”, chấp nhận mọi sự trả thù.
2. Vẻ đẹp thiên lương trong sáng
– Coi thường của cải vật chất của Huấn Cao: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”
– Trân trọng thiên lương của người khác: “Nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp như thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
– Người hướng thiện: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi…”.
III. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chữ người tử tù.
Cảm nhận chung về hình tượng nhân vật Huấn Cao.
1. Mở bài phân tích nhân vật Huấn Cao
Giới thiệu qua về tác giả Nguyễn Tuân
Giới thiệu qua tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đây là truyện ngắn được in trong tập Vang bóng một thời. Nội dung cụ thể kể về một tình huống truyện độc đáo xảy ra trong ngục tối. Nói về cảnh cho chữ của một tử tù Huấn Cao với một viên cai ngục. Đọc câu chuyện, độc giả cảm nhận được sự tiếc nuối của tác giả trước một nét đẹp văn hóa bị mai một.
Giới thiệu qua về nhân vật Huấn Cao
II. Phần thân bài phân tích chi tiết
Luận điểm 1: nhân vật Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa, có tài viết chữ đẹp
Đầu tiên, các bạn cần hiểu thế nào là tài viết chữ đẹp. Ở đây, nhà văn miêu tả Huấn Cao có tài viết chữ thư pháp. Đây là một nét đẹp trong văn hóa xa xưa. Là một thú vui tao nhã được người đời gìn giữ và bảo tồn.
Đặc biệt, tài năng hoa của Huấn Cao được thể hiện rõ thông qua ước mong và nguyện vọng của viên quản ngục. Ông khát khao được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Viên quản ngục nói: “Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm… Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Nếu xin được chữ của Huấn Cao, viên quản ngục thấy mãn nguyện và có chết cũng cam lòng. “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”.
Rồi khi cảnh cho chữ diễn ra, hình ảnh người tử tù cho chữ đã làm sáng cả một khoảng tăm tối của ngục tù. Xua đi cái giá lạnh, cái xấu xa nơi tận cùng của xã hội. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vắng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”
Luận điểm 2: Huấn Cao là người có khí phách hiên ngang, bất khuất
Tiếp đến, khi đã vào ngục, thay vì la khóc, van nài tha tội hay run sợ trước cái chết, thì Huấn Cao lại ung dung và có phần coi thường viên quản ngục. Huấn Cao không chỉ thong dong nhận thức ăn rượu thịt mà viên quản ngục mang vào tự nhiên mà còn tỏ ra thái độ khinh miệt của với viên quản ngục. “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng đặt chân vào đây.”
Luận điểm 3: nhân vật Huấn Cao là người có nhân cách cao đẹp, thiên lương và trong sáng
Tuy là một người tài hoa, nổi tiếng khắp tỉnh Sơn Đông nhưng Huấn Cao không bao giờ cho chữ vì vàng bạc, vì quyền lực. Ông trân quý chữ như chính sinh mạng của mình. Bởi thế, khi viên quản ngục ngỏ ý xin chữ, Huấn Cao đã nói: “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
Tuy là người thẳng thắn, chính trực yêu cái đẹp và sự thiện lương nhưng ông cũng là một người biết cảm thông và cảm mến với những con người vì hoàn cảnh ngộ mà đưa đẩy vào sự lầm đường lạc lối. Bởi thế, sau nhiều lần nhận được sự chân thành muốn xinh chữ của viên quản ngục Huấn Cao đã rất cảm kích trước “trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ông. Vì thế, khi viên quản ngục chia sẻ tâm tư. Huấn Cao đã quyết định cho chữ ngay ở chốn ngục tù. Không những thế, Huấn Cao còn cảm thấy ân hận và có lỗi khi xem thường viên quản ngục. “Nào đâu có biết một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.”
Nhân phẩm thanh cao của nhân vật Huấn Cao, còn được thể hiện qua sự thẳng thắn khi không dễ dàng chấp nhận sự lẫn lộn cái tốt và cái xấu, giữa cái thiện và cái ác. Bởi thế, sau khi cho chữ, ông đã chân thành khuyên răn viên quản ngục. “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?… Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
3. Kết bài
Khái quát lại hình tượng nhân vật này một lần nữa. Qua những gì nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả, có thể thấy Huấn Cao là một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và một khí phách hiên ngang. Ông là một người anh hùng chính trực, luôn yêu cái thiện và cực kỳ ghét cái ác. Ông không bao giờ vì tiền bạc mà đánh đổi lương tâm và tài hoa của mình.
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Chữ người tử tù và dẫn dắt đến cảnh cho chữ.
Ví dụ: Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo. Có người đã cho rằng mỗi sáng tác của ông như đóng một dấu triện riêng. Tuy nhiên, điều thú vị là, dấu ấn này không phải qua vài tác phẩm mới bộc lộ, mà ngay từ tập truyện ngắn đầu tay “Vang bóng một thời” (1940) đã được in đậm. “Chữ người tử tù” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Tuân nằm trong tập truyện trên. Người đọc có thể nhận ra những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của tác giả bậc thầy này qua cảnh cho chữ độc đáo của thiên truyện.
II. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm Chữ người tử tù
– “Chữ người tử tù” là truyện ngắn hội tụ nhiều cái “nhất” trong sự nghiệp của Nguyễn Tuân: Có nhân vật đẹp nhất (Huấn Cao), nhân vật lạ nhất (Quản ngục), cảnh độc đáo nhất (cảnh cho chữ). Đương nhiên, với tất cả những điều ấy, truyện ngắn này cũng có một vị trí đặc biệt, mọi người đều thống nhất rằng đây là một trong những truyện hay nhất trong “Vang bóng một thời” (1940) – tập truyện ngắn đầu tay của nhà văn đã được “Tự lực văn đoàn” trao giải.
– Câu chuyện kể về những ngày Huấn Cao ở trong nhà giam tỉnh Sơn, trước khi về kinh thụ án. Vẻ đẹp của nhân vật này, tư tưởng của thiên truyện đều tỏa sáng rực rỡ trong cảnh cho chữ. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng ở cảnh này, mọi nét đậm nhất trong phong cách của Nguyễn Tuân đã tụ lại.
2. Phân tích cảnh cho chữ
– Nếu nói như G.S. Nguyễn Đăng Mạnh: “Nguyễn Tuân là nhà văn của những tính cách phi thường, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt”, thì có thể nhanh chóng nhận ra rằng cảnh cho chữ đã hội tụ tất cả những nét vượt trội ấy. Đây là một khung cảnh đặc biệt, và chính người khắc hoạ cũng khẳng định rằng đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Advertisement
– Sự đặc biệt này hiện ra ở mọi góc của cảnh: thời gian, không gian và nhân vật.
* Nhân vật:
Thông thường: Người cho chữ và người được cho chữ là những tri âm tri kỷ đến độ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Ở họ luôn toát ra sự an nhiên, điềm tĩnh, ung dung của bậc túc nho.
Trong tác phẩm: Người cho chữ là một tử tù, người được cho chữ là viên quản ngục. Họ có vị trí đối nghịch trong xã hội. Hơn nữa, họ mới gặp nhau hơn nửa tháng. Đặc biệt, cảnh cho chữ đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, khi người tù thì dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn đứng thẳng người và đĩnh đạc, còn quản ngục “khúm núm” và nghẹn ngào. Trong quan hệ xã hội họ là kẻ thù nhưng trong bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm tri kỉ.
* Không gian:
Thông thường: Người ta viết chữ cho nhau ở nơi thư phòng sạch sẽ, không gian của học thuật.
Trong tác phẩm: Người ta viết chữ cho nhau trong “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đây là không gian mà cái xấu, cái ác thống trị.
* Thời gian:
Thông thường: Người ta cho chữ khi thư nhàn, thong thả, trong ánh sáng của buổi mai ấm áp.
Trong tác phẩm: Người ta cho chữ vào ban đêm một cách vội vã, chạy đua với thời gian, gấp rút tránh những ánh mắt của bọn lính đến phiên canh buổi sáng và tránh cái công văn oan nghiệt giải người về kinh thụ án.
3. Ý nghĩa của cảnh cho chữ
– Cho thấy Huấn Cao không phải là một nghệ sĩ bậc thầy trong nghệ thuật thư pháp, đang sáng tạo ra cái đẹp siêu việt trước khi đi vào cõi bất tử.
– Huấn Cao còn hiện lên với vai trò của người hướng thiện: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.
III. Kết bài
Nhà thơ Lê Đạt đã viết: “Mỗi công dân có một dạng vân tay/Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ”. Yêu cầu này không chỉ đối với nhà thơ, mà với nhà văn cũng thật cần thiết. Nguyễn Tuân chính là nhà văn có “vân chữ” không thể lẫn, điều ấy đã được chứng minh thuyết phục qua cảnh cho chữ trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”.
Nguyễn Tuân nổi tiếng là một nhà văn tài hoa, uyên bác, giàu cá tính. Ông là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Và trong rất nhiều cái đẹp mà ông cảm khái, theo đuổi ấy, ta thấy có cái đẹp ngời sáng giữa cảnh lao tù tăm tối, cái đẹp toát ra từ người tử tù Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”.
Trong tác phẩm, Huấn Cao là một con người sống hiên ngang bất khuất, không có sức mạnh quyền thế, bạc vàng nào có thể khuất phục ông. ” Con người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng còn biết có ai nữa…”. Một con người khẳng khái như vậy còn sợ gì cường quyền hay tham gì tiền bạc?
Là người chọc trời khuấy nước, không chịu được triều đình phong kiến ngày càng suy thoái, mục nát, Huấn Cao chống lại triều đình ấy. Bị gọi là giặc nhưng là vì nghĩa lớn, vì lí tưởng lớn nên điều đó có hề gì. Đến khi bị bắt giam, sắp lên đoạn đầu đài Huấn Cao vẫn hiên ngang, bất khuất “đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là…”. Trong những ngày ở nhà giam tỉnh Sơn, Huấn Cao vẫn giữ phong thái ung dung, tự do, tự tại, không quan tâm đến bất kì ẩn ý nào trong cách cư xử đặc biệt của quản ngục. Ông thản nhiên nhận rượu thịt của quản ngục và coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm.
Dưới con mắt Huấn Cao, bọn cầm quyền chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng. Ông không thèm chấp lời dọa dẫm của tên lính áp giải khi cùng các bạn tù thực hiện động tác ” dỗ gông” trước cửa nhà lao. Khi viên quản ngục đến tận phòng giam, khép nép hỏi ông có cần gì nữa không, ông trả lời như hắt nước vào mặt quản ngục: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Phân biệt đãi mà vẫn tỏ ra khinh bạc với quản ngục. Đó là khí phách của một trang anh hùng đầy dũng khí, vẫn bình tĩnh sống những ngày cuối đời một cách oanh liệt.
Là con người chọc trời khuấy nước, hiên ngang bất khuất, không sợ bạo lực, cường quyền nhưng Huấn Cao lại coi trọng bản chất tốt đẹp của con người. Trong phần người sâu thẳm mà đôi khi vì hoàn cảnh, người ta phải giấu kín, việc ông cho chữ và lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của Huấn Cao. Lời ấy là tiếng lòng, là tâm huyết của ông: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Ông yêu cái đẹp và trân trọng người biết yêu cái đẹp. Huấn Cao hiểu được tấm lòng quản ngục thì sẵn sàng cho chữ, bởi ông cảm là cảm cái bản chất thiên lương.
……………
Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba ❤️️15 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay ✅ Tham Khảo Những Mẫu Văn Được chúng tôi Chọn Lọc Để Các Em Học Tốt Ngữ Văn.
Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba đầy đủ sau đây sẽ hỗ trợ các em trong việc triển khai bài văn logic.
I. Mở bài:
Giới thiệu nhân vật
Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu nhất trong số đó có thể kể đến vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Thông qua câu chuyện về bi kịch của Trương Ba, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện được nhiều quan niệm nhân sinh sâu sắc về cuộc đời, con người.
II. Thân bài:
Câu chuyện xoay quanh bi kịch của Trương Ba khi bị chết oan, để tiếp tục sống thì buộc ông phải sống trong thân xác của người hàng thịt.
Người hàng thịt tuy chỉ là thể xác âm u đui mù nhưng lại có những nhu cầu riêng, tính cách riêng và có sức mạnh để thực hiện những nhu cầu của mình.
Trương Ba đã bị cái xác chi phối, dần trở thành con người vụng về, thô tục với những ham muốn tầm thường, dần trở nên thô lỗ.
Trương Ba không còn quan tâm đến hàng xóm láng giềng.
Những thay đổi của Trương Ba đã khiến cho người thân thất vọng, bản thân Trương Ba cũng nhận thấy sự đổi khác của mình.
Trương Ba bất lực trong việc kiểm soát hành động và những suy nghĩ không đúng đắn của bản thân.
Dù cố gắng giải quyết nhưng ông vẫn đau khổ vì không thể phủ nhận rằng mình đang dần đánh mất chính mình.
Trương Ba đã quyết định lựa chọn cái chết để trả lại xác người hàng thịt cho người hàng thịt, để bản thân được sống trọn vẹn , thống nhất.
III. Kết bài: Thông qua nhân vật Trương ba cùng bi kịch sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện sự trăn trở về mối quan hệ giữa thể xác và tâm hồn, giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Để sống hạnh phúc, con người cần dung hòa được các nhu cầu ấy.
Gửi tặng bạn 💕 Tóm Tắt Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt 💕 Ngoài Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba
Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba Ngắn Gọn, súc tích giúp các em có thêm nhiều tài liệu ôn tập thật tốt.
Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nổi tiếng với những tác phẩm có nội dung giàu tính hiện thực, có tính đả kích sâu sắc và mang đậm giá trị nhân văn. Một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của ông phải nhắc đến đó chính là tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt. Trong tác phẩm này những vấn đề mấu chốt và tình huống truyện đều tập trung xoay quanh nhân vật Trương Ba, một con người phải sống nhờ ở đậu trong thân xác của người khác.
Trước khi đột ngột qua đời, Trương Ba là một người đàn ông hiền lành đức độ trong gia đình, ông là một hình mẫu mực thước cho tất cả các thành viên noi theo. Chính vì vậy ông rất được vợ con yêu thương, con cháu kính trọng. Ông là người không những nho nhã, thanh lịch lại rất thông minh và hiểu biết, nước cờ ông đánh họa chăng chỉ có Đế Thích mới giải vây được. Có thể thấy được đây là con người tri thức, nền nã vừa đẹp ở tâm hồn nhân cách lại có những hành vi ứng xử văn minh.
Tuy nhiên, chỉ vì một sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khi vội đi chơi mà khiến cho Trương Ba phải chết oan. Cái chết của Trương Ba đột ngột và vô lý đến nỗi khi vợ Trương Ba gặp Đế Thích để đòi lại sự công bằng Đế Thích cũng phải bối rối. Công bằng ấy được sửa chữa, vá víu bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào trong thân xác của hàng thịt. Thế nhưng đây cũng là lúc bắt đầu bi kịch của Trương Ba.
Trương Ba dần trở nên thô thiển hơn, có những hành động lỗ mãng, không còn giống với con người của ông trước kia. Ông trở nên tham ăn tục uống, ăn uống phàm phu tục tử, nói năng thì bỗ bã, thô thiển, hành vi thì lố bịch. Trương Ba đã làm những việc trước đây ông chưa từng làm: tát con trai, làm “gãy tiệt cái chồi non” của cây cam, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm, đã “làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị. Không chỉ vậy, trong một lần vợ hàng thịt nằng nặc đòi chồng ở lại với mình, Trương Ba đã suýt chút nữa mà nghe theo.
Sự thay đổi của Trương Ba khiến cho chính gia đình ông cũng không chấp nhận được, vợ Trương Ba chấp nhận bỏ đi để ông về sống với vợ hàng thịt. Cái Gái cháu ông thì không nhận ông, cô con dâu ngoan hiền hiểu chuyện nhất cuối cùng cũng trách cứ cha mình. Trương Ba đau khổ lắm.
Không phải ông không biết những sự thay đổi đã diễn ra với mình chỉ là ông không thể làm được gì để thay đổi thực tại. Hoàn cảnh của ông đích thực là lực bất tòng tâm. Dù linh hồn của ông muốn nhưng thân xác không chịu nghe theo thì ông cũng không thể điều khiển được. Huống hồ việc ban ngày ở trong thân xác hàng thịt lâu dần khiến cho ông bị tha hóa, trở nên thô thiển, cục mịch, ngày càng giống với con người hàng thịt.
Trương Ba vô cùng đau khổ và day dứt về sự thật này nên đã gặp Đế Thích và trình bày nỗi lòng của bản thân. Có thể thấy ông là một người rất có nhân cách, lòng tự trọng. Ông đã thẳng thừng nói với Đế Thích chỉ quan tâm cho người ta sống còn sống thế nào thì Đế Thích không quan tâm.
Những lời phê phán của Trương Ba rất gay gắt nhưng cũng vô cùng chính xác về Đế Thích và cách làm của ông. Trương Ba cuối cùng đau khổ lựa chọn cái chết còn hơn chấp nhận hoán đổi linh hồn mình vào một thể xác mới. Đây là một sự lựa chọn cao cả và thể hiện đúng tính cách con người ông.
Ông không thể chấp nhận sự giả dối, hoán đổi, không thể sống mà trong một đằng ngoài một nẻo. Dù cho ông có được đổi sang một thân xác nào đi nữa thì đó cũng là thân xác đi mượn và rồi ông sẽ lại gặp rất nhiều rắc rối khi không được là chính mình. Cách lựa chọn này đã đưa Trương Ba trở về là chính ông dù điều đó đồng nghĩa với việc ông phải vĩnh viễn rời xa vợ con của mình.
Bi kịch của Trương Ba đã nói lên một vấn đề đó là sống nương nhờ trong thân xác của người khác. Con người phải sống là chính mình, nhất quán, đồng điệu giữa tâm hồn và thể xác không thể có chuyện linh hồn người này nhưng lại sống trong thân xác của người khác.
Cách lựa chọn giải quyết vấn đề cũng cho thấy được nhân cách cao đẹp trong con người Trương Ba, ông đã lựa chọn cái chết để được làm chính mình còn hơn cố gắng níu giữ sự sống trong khi mình dần bị tha hóa, biến đổi. Cuối cùng thì Trương Ba vẫn trở về là người chồng yêu thương vợ con, là người cha mẫu mực, người ông đáng kính trọng của tất cả con cháu trong nhà.
Ngoài Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba, Chia sẻ cho bạn ☀️ Sơ Đồ Tư Duy Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt ☀️ 9 Mẫu Vẽ Hay
Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba Hay Nhất, cùng đón đọc bài mẫu sau đây để chuẩn bị tốt cho kì thi của mình.
Lưu Quang Vũ là người nghệ sĩ đa tài. Ông sinh năm 1948, mất năm 1988, lần đầu tiên bén duyên với nghệ thuật từ những năm 1960 của thế kỷ trước bằng con đường thi ca. Nếu ai đã từng đọc thơ Lưu Quang Vũ ta thấy hiện lên một tình yêu quê hương đất nước nồng nàn với hồn thơ trong sáng. Toàn bộ điều này được kết tinh trong trường ca “Khúc đàn bầu”.
Từ năm 1978, Lưu Quang Vũ chuyển từ thơ ca sang lĩnh vực sân khấu. Có thể khẳng định sân khấu là mảnh đất nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Ông đến với sân khấu như duyên trời định. Chỉ đến khi gặp mảnh đất này, ông thực sự thăng hoa. Những năm gắn kết với sự nghiệp sân khấu, Lưu Quang Vũ đã để lại một sự nghiệp đồ sộ đánh dấu bằng 51 vở kịch nổi tiếng.
Nhắc đến sự nghiệp kịch của Lưu Quang Vũ mỗi người yêu văn không thể không nhắc đến vở kịch “Tôi và chúng ta”, “Bệnh sĩ”, “Nếu anh không đốt lửa”, “Lời nói dối cuối cùng”, “Nàng Xi-ta”, “15 ngày kháng án”,… Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu nhắc đến sự nghiệp kịch của Lưu Quang Vũ lại không nhắc đến “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Vở kịch này đã làm nên tên tuổi Lưu Quang Vũ không chỉ ở sân khấu Việt Nam mà còn dư vang ra cả nước ngoài. Nó tạo nên một hiện tượng của Lưu Quang Vũ. Đó là hiện tượng chưa từng xảy ra trong lịch sử sân khấu Việt Nam.
Tác phẩm được đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác của Lưu Quang Vũ nói riêng, của thể loại rất hiếm trong chương trình giảng dạy đó là thể loại kịch. Thành công của Lưu Quang Vũ trong vở kịch này đó là ông đã đưa ra được tình huống kịch vô cùng xuất sắc. Tình huống kịch này đã tạo ra được những xung đột kịch để từ đó người yêu văn tự rút ra cho mình nhiều bài học nhân sinh, nhiều ý nghĩa triết lí thông qua vỏ bề ngoài của xung đột đó là vỏ ngôn ngữ kịch.
Cần phải khẳng định Lưu Quang Vũ là người nghệ sĩ vô cùng trung thực, thẳng thắn, dũng cảm. Ông thường lách sâu ngòi bút của mình vào những “mảng tối” của xã hội Việt Nam thời kì hậu chiến để từ đó nhà văn lên án, phơi bày, phê phán cái lối tư duy xưa cũ, lạc hậu, bảo thủ, cổ hủ, với đạo đức rởm đời để đưa ra những triết lý nhân sinh của cuộc sống.
Như ta đã biết, tình huống là khoảnh khắc về thế giới, là một lát cắt của câu chuyện mà ở đó hoàn cảnh truyện, mâu thuẫn truyện, tính cách nhân vật đều được bộc lộ một cách sắc nét. Nó vừa giúp cho nhà văn tổ chức được mạch truyện – kết cấu của tác phẩm. Tuy nhiên sự đặc sắc của tình huống kịch đó là nó thường được bộc lộ thông qua xung đột kịch.
Có lẽ chính xung đột kịch mới tạo ra được mâu thuẫn của tác phẩm, tính cách của nhân vật cũng như ý nghĩa của vở kịch được bộc lộ thông qua xung đột kịch mà cái lớp vỏ bề ngoài để đến với độc giả bạn đọc chính là ngôn ngữ. Thế nên người viết kịch thường quan tâm đến ngôn ngữ kịch hơn nhiều so với hành động kịch.
Theo tích truyện dân gian, Trương Ba là người làm vườn rất chăm chỉ, hiền hậu nho nhã. Nhưng cái hay ở đây đó là Trương Ba có tài cờ tướng. Chỉ vì tắc trách, sơ suất, cẩu thả, vội đi ăn tiệc nên Nam Tào – vị quan trên thiên đình có chức năng trông coi việc sinh tử ở dưới hạ giới – gạch nhầm tên Trương Ba khiến Trương Ba bị chết oan.
Để sửa sai, Nam Tào cùng tên Đế Thích đã để hồn ông sống nhập vào thân xác anh hàng thịt vừa chết. Nếu theo tích truyện cổ xưa thì từ ngày hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt, Trương Ba được sống một cuộc đời hạnh phúc, êm ấm bên gia đình vợ con.
Nhưng không, là một nhà viết kịch của giai đoạn mới, Lưu Quang Vũ đã không kết vở kịch của mình theo lối này. Ngược lại, ông lấy điểm kết thúc của câu chuyện dân gian làm điểm khởi đầu cho vở kịch của mình, nghĩa là kể từ ngày nhập vào thân xác cồng kềnh, thô lỗ của anh hàng thịt, hồn Trương Ba bị sa vào lối sống quẩn quanh, bế tắc, tiêu điều.
Đó chính là bi kịch trong tâm hồn của Trương Ba. Nhân nay ta nói qua khái niệm bi kịch. Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính mãnh liệt của con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế. Cuối cùng, người mang khát vọng rơi vào kết cục của thảm kịch.
Bi kịch là cuộc đấu tranh dai dẳng không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa hiện tượng và bản chất, nội dung và hình thức, bên trong một đằng bên ngoài một nẻo… Tất cả những mâu thuẫn này diễn ra trong đời sống tâm hồn của hồn Trương Ba kể từ ngày nhập vào than xác cồng kềnh, thô lỗ của anh hàng thịt.
Nếu ai đã đọc toàn bộ vở kịch này hẳn sẽ nhận thấy không phải chỉ đến cảnh bảy Trương Ba mới gặp bi kịch. Những ngày trước hồn Trương Ba vừa nhập vào thân xác anh hàng thịt đã bộc lộ bi kịch này. Ta thấy rất rõ ở xung đột kịch đầu tiên giữa hồn Trương Ba với thân xác cồng kềnh của anh hàng thịt.
Cần phải khẳng định trong vở kịch này, hồn Trương Ba tượng trưng cho phần tinh túy của con người, tượng trưng cho thế giới tâm hồn. Nó thuộc vào phạm trù ý thức của con người. Nó là phần “Người” trong hai chữ “Con Người”. Còn xác ở đây nó thuộc vào thế giới vật chất, là phần “Con” trong hai chữ “Con Người” mà Maxim Gorky đã trân trọng viết hoa nó. Như vậy, hai chữ “Con Người” cần phải cân đối với nhau. Ở trong cái “Tôi” toàn vẹn, một cái “Tôi” thống nhất thì hai chữ “Con” và “Người” được tôn trọng như nhau.
Tuy nhiên ở đây nó lại là nghịch cảnh. Hồn của Trương Ba lại ở trong da của anh hàng thịt, nghĩa là bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo không thống nhất nhau, hồn và xác không nằm trong cái “Tôi” thống nhất cho nên hồn và xác đầy mâu thuẫn với nhau. Thông qua xung đột đầu tiên giữa hồn và xác, tác giả đã đưa ra rất nhiều ý nghĩa.
Hồn lúc đầu coi thường xác, gọi xác là “mày” xưng “ta”. Đối với hồn xác chỉ là xác thịt thâm u, đui mù, không biết gì cả. Hồn khinh bỉ xác suốt ngày rượu thịt, tiết canh, lòng lợn, khấu đuôi, ngày ăn tám, chín bát cơm,… Chính vì vậy, khi vở kịch mới mở ra Trương Ba đã nói ngay là không thể trú ngụ vào cáy thân xác thô lỗ này.
Đọc kịch của Lưu Quang Vũ, người yêu kịch vẫn nhận thấy, vẫn tự tin trong đống của những con người lố nhố đang thăng quan tiến chức, đang bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo thì bỗng thấy có Lưu Quang Vũ sống thẳng thắn, trung thực hóa thân thành Trương Ba để bộc lộ quan điểm của mình.
Mặc dù vậy, quan điểm của Lưu Quang Vũ, vở kịch của Lưu Quang Vũ, văn chương của Lưu Quang Vũ không hề bơi ngược dòng với luận điệu của Đảng, không hề bơi ngược dòng với văn chương Việt Nam. Thế nên những tác phẩm của Lưu Quang Vũ cứ như con thuyền xuôi mái nhưng vẫn thể hiện được ý tưởng, chính kiến của mình. Đó là những đạo đức của cuộc sống, là giá trị nhân văn của cuộc sống. Lưu Quang Vũ xứng đáng là một nhà văn lớn trên thi đàn văn chương Việt Nam.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹Phân Tích Cuộc Đối Thoại Giữa Hồn Và Xác ❤️️ Ngoài Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba
Lưu Quang Vũ là một trong những nhà soạn kịch tài năng bậc nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu nhất trong số đó có thể kể đến vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Thông qua câu chuyện về bi kịch của Trương Ba, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện được nhiều quan niệm nhân sinh sâu sắc về cuộc đời, con người.
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được sáng tác dựa trên một câu chuyện dân gian cổ, tuy nhiên nếu như truyện dân gian chỉ kết thúc ở chi tiết hồn Trương Ba trở về với xác của mình thì vở kịch của Lưu Quang Vũ lại được phát triển từ phần kết của câu chuyện đó để truyền tải những quan niệm nhân sinh sâu sắc.
Câu chuyện xoay quanh bi kịch của Trương Ba khi bị chết oan, để tiếp tục sống thì buộc ông phải sống trong thân xác của người hàng thịt. Điều đáng nói là xác người hàng thịt tuy chỉ là thể xác âm u đui mù nhưng lại có những nhu cầu riêng, tính cách riêng và có sức mạnh để thực hiện những nhu cầu của mình, từ khi sống trong thân xác của người hàng thịt, Trương Ba dần thay đổi trong mắt của mọi người.
Trương Ba phải sống nương nhờ vào xác của người hàng thịt, vốn là người làm vườn chăm chỉ, giàu tình yêu thương, một người trí thức am hiểu, sống có trách nhiệm nhưng khi khi sống trong xác người hàng thịt, Trương Ba đã bị cái xác chi phối, dần trở thành con người vụng về, thô tục với những ham muốn tầm thường, dần trở nên thô lỗ khi dùng bàn tay và sức mạnh của người hàng thịt để đánh anh con trai đến bật máu. Cũng từ khi sống trong thân xác của người hàng thịt, Trương Ba không còn quan tâm đến hàng xóm láng giềng.
Những thay đổi Trương Ba đã khiến cho người thân thất vọng, bản thân Trương Ba cũng nhận thấy sự đổi khác của mình nhưng lại không thể kiểm soát được thể xác tưởng chừng âm u đui mù.
Trương Ba hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát hành động và những suy nghĩ không đúng đắn của bản thân, dù cố gắng giải quyết nhưng ông vẫn đau khổ vì không thể phủ nhận rằng mình đang dần đánh mất chính mình. Câu nói của Trương Ba với xác người hàng thịt trong sự tuyệt vọng đã thể hiện nỗi đau khổ, bất lực đến cùng cực của ông “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”.
Không chỉ đau khổ với bi kịch không được sống là chính mình, sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo mà Trương Ba còn phải đối mặt với bi kịch bị từ chối. Trước những sự thay đổi của Trương Ba, những người thân và hàng xóm láng giềng đều không sao hiểu được, càng yêu quý, kính trọng con người trước kia của ông bao nhiêu thì họ càng không thể chấp nhận con người hiện tại của Trương Ba.
Người vợ vì hờn ghen với mối quan hệ không rõ ràng giữa Trương ba và vợ người hàng thịt mà muốn bỏ đi. Cháu gái khóc lóc và kiên quyết không chịu thừa nhận Trương ba của hiện tại là người ông hiền từ, giàu yêu thương trước đây. Chị con dâu, người thương và hiểu Trương ba nhất cũng không giấu nổi sự thất vọng khi thấy bố ngày càng đổi khác “ mỗi ngày…một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi”.
Chính bản thân của Trương ba cũng không thể chấp nhận được sự thay đổi của bản thân, để chấm dứt bi kịch sống không phải là mình, bảo vệ những giá trị tốt đẹp của bản thân, Trương Ba đã quyết định lựa chọn cái chết để trả lại xác người hàng thịt cho người hàng thịt, để bản thân được sống trọn vẹn , thống nhất.
Thông qua nhân vật Trương ba cùng bi kịch sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện sự trăn trở về mối quan hệ giữa thể xác và tâm hồn, giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Để sống hạnh phúc, con người cần dung hòa được các nhu cầu ấy.
Tham khảo văn mẫu 🌹Phân Tích Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt ❤️️ Ngoài Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba
Bài Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt được nhiều bạn đọc chia sẻ rộng rãi trên các diễn đàn văn học nổi tiếng.
Vở kịch hiện lên có nhân vật Trương Ba, anh là một người nông dân chân chất, bản tính hiền lành, chăm chỉ làm ăn và lối sống trong sạch. Ông được trời ban cho linh hồn được tái sinh và trú ngụ ngay trong xác của anh hàng thịt sau một tháng rời khỏi trần đời. Khoảng thời gian sống nhờ đó, hồn Trương Ba thấm thía vô cùng cái cảnh ngộ trớ trêu, ông đau đớn thấu tâm can khi nhân cách ngày càng lệch lạc, mai một.
Anh không còn sống là chính mình nữa rồi, mọi giá trị anh trước đây dần biến mất đi thay vào đó là một linh hồn nhiễm độc rồi mờ dần. Không muốn kéo dài điều tồi tệ này nên gặp Đế Thích, hồn Trương Ba đã xin được thoát khỏi thể xác kia, được chết với lí do là anh không thích sống một cuộc đời giả dối, vô nghĩa. Hồn Trương Ba một chút trách móc với Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!…
Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được… sống như thế này còn khổ hơn là cái chết”. Lời tâm sự với một chút nhẹ nhàng trách móc này cho thấy triết lí sống của Trương Ba, đây mới là con người thật sự của anh, từng lời nói anh phân biệt rõ rệt giữa sống và tồn tại. Tiếp tục sự sống mà phải sống một cách vô nghĩa, không có ích như thế thì thà đừng sống thì thà không tiếp tục sự sống còn hơn.
Sống bên trong thân xác của anh hàng thịt chính là sự tồn tại, sống mà cứ luôn đau đáu, Đế Thích cứu Trương Ba thoát khỏi cái chết nhưng trở lại cuộc sống cũng chỉ là tồn tại một cách vô nghĩa. Trương Ba không chấp nhận “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo”, đó là khi hồn đi theo một hướng nhưng xác lại muốn làm theo một nẻo, con người sống luôn bị chi phối bởi sự không hài hòa, tự nhiên đó, tiêu hủy nhau rất mệt mỏi, không đúng với quy luật cuộc sống.
Sự sống được duy trì rất máy móc, lạnh lẽo, vô cảm là khi hồn Trương Ba tồn tại trong xác anh hàng thịt. Một đời sống chỉ nhằm để thỏa mãn những dục vọng, mong ước xấu của bản thân, không tha thiết, rung cảm gì trước bao điều đẹp đẽ trên đời, giá trị tinh thần lại càng không có. Đó là khi sống trong cái xác, còn tâm hồn thực ra đã không còn.
Trương Ba mong muốn nếu được sống thì là sống một cuộc đời có giá trị, có ích cho bản thân, gia đình, xã hội, từng ngày không ngừng học hỏi, đổi mới bản thân để hoàn thiện chính mình cả về nhân cách và tài năng. Một tâm hồn biết cảm động trước những điều đẹp đẽ, biết lên án, đẩy lùi những điều xấu xa, tìm thấy được niềm vui, hạnh phúc, đích đến trong cuộc sống.
Khi mà hồn Trương Ba nhập vào xác, mọi hoạt động bị sai khiến bởi thân xác, nuông theo những khát vọng tầm thường, sống phàm phu tục tử như thế Trương Ba thà không được sống còn hơn, anh quyết định chết là một quyết định đúng đắn, sâu sắc. Nhà thơ đặt Trương Ba vào hoàn cảnh này để thấy rằng điều muốn gửi đến tất cả chúng ta đó là sống trong đời cần biết phân biệt đúng sai mà nương theo cái tốt, sống hết mình, không ngại lên án cái xấu xa, không ngừng hoàn thiện nhân cách của mình từ đó mới nhận thức rõ về một cuộc đời có nghĩa.
Nghe những lời từ hồn Trương Ba, Đế Thích buông lời an ủi: “Cả Ngọc Hoàng cũng không sống trọn vẹn mà phải khuôn ép cho xứng danh, không ai được sống theo những điều mình muốn, mà thường bị ràng buộc theo câu thúc”. Câu nói này có bởi vì cuộc sống chẳng lúc nào theo ý mình muốn, nhu cầu mong được sống theo ý muốn sẽ luôn có những điều cản trở, ràng buộc. Do đó cần đến một khả năng thích nghi mềm dẻo, linh hoạt của con người.
Nỗi khổ mà Trương Ba gặp phải ở đây xuất phát từ sự thiếu thận trọng, tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu. Bởi thế mới thấy cả Thánh còn có sai lầm huống chi con người sao thoát khỏi những khuyết điểm, lỗi lầm. Thông qua đó sẽ có thể chỉ trích, không đồng tình với việc làm của bộ phận quan liêu chức cao cẩu thả khiến dân vô tội chịu oan ức.
Lưu Quang Vũ xây dựng vở kịch với nhân vật hồn Trương Ba nổi bật đã truyền tải được triết lí nhân văn, có tính thời sự đến cho người đọc.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Bài Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba Trong Đoạn Trích giúp các em có thể học hỏi được cách diễn đạt và cách dùng từ ngữ sáng tạo.
Một triết gia người Đức đã từng nói: “Anh phải trở về cái gì của chính anh”. Câu nói ấy là tiếng nói phải được sống là chính mình để trở thành một con người hoàn thiện. Tiếng nói ấy cũng gợi chúng ta nghĩ tới vở kịch “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ.
Thông qua nhân vật Hồn Trương Ba cũng bật lên tiếng gọi, lời khẩn cầu tha thiết được sống là chính mình “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Chỉ với câu nói ấy nhưng cũng toát lên một nỗi niềm, nỗi bi kịch đau đớn cùng khát vọng chính đáng của chính nhân vật Hồn Trương Ba.
Trước tiên, xét về thể loại văn học, bi kịch có thể được hiểu là một thể loại kịch trong đó chứa đựng những mâu thuẫn, xung đột căng thẳng, gay gắt giữa cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, giữa cái cao cả và cái thấp hèn do vậy mà nhân vật bi kịch thường xuất phát điểm là những con người hiền lành, lương thiện do các yếu tố chủ quan hay khách quan bị đẩy vào bi kịch, khiến mình trở nên khác đi không còn giống như ban đầu song họ vẫn ý thức được điều đó nên bị rơi vào trạng thái đau khổ, bế tắc, trăn trở tìm lối thoát cho mình nhưng kết thúc thường là cái chết của nhân vật.
Soi chiếu cách hiểu trên vào nhân vật Hồn Trương Ba, ta nhận thấy nhân vật ấy là một nhân vật bi kịch. Đó là nỗi bi kịch tinh thần đau đớn của nhân vật. Bi kịch ấy xuất phát từ nỗi niềm muốn sửa sai của Đế Thích-một quan nhà trời và là bạn chơi cờ của ông Trương Ba đã nhập hồn Trương Ba vào xác anh hàng thịt. Từ đây mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh, một con người mà được kết hợp bởi hai thực thể hoàn toàn đối lập, trái ngược nhau.
Một Trương Ba yêu thiên nhiên, yêu gia đình, hòa nhã với mọi người, có tài đánh cờ giỏi lại kết hợp với xác anh hàng thịt là một tên đồ tể giết lợn, thô lỗ, cộc cằn, ham rượu, ham đàn bà. Giữa hai thực thể đối lập nhau đã dần dần khiến Hồn Trương Ba tha hóa, biến chất. Hồn người này kết hợp với xác người kia là việc đi ngược lại với quy luật tự nhiên vốn có, một sự áp đặt tùy tiện, máy móc. Cuối cùng Hồn Trương Ba biến chất một cách đau đớn, thảm hại, xót xa.
Song bi kịch của Hồn Trương Ba không chỉ dừng lại ở đó, ông lại lâm vào bi kịch thứ hai có phần đau đớn hơn bi kịch trước. Đó là khi ông bị gia đình nghi ngờ, xem thường và xa lánh. Tất cả mọi người thân trong gia đình từ người vợ, người con trai cả, đứa cháu gái và cả người con dâu ai ai cũng xa lạ, nghi ngờ và xem thường ông vì họ không tìm thấy ở ông một ông Trương Ba làm vườn của ngày trước hiền lành, đôn hậu.
Khi Hồn Trương Ba gần vợ anh hàng thịt khiến ông “ tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực” biểu thị sự ham muốn trỗi dậy không còn “ sự hiền lành, vui vẻ, tốt lành” như xưa, đến nỗi cả vợ ông khi nhìn thấy chồng mình trước tình cảnh như thế, vừa thương vừa giận vừa ghen và muốn xa lánh ông ngay lập tức. Bà vợ đã tâm sự thẳng thắn với ông: “ Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa” và bà quyết định “ Có lẽ tôi phải đi… đi cấy thuê, làm mướn, ở đâu cũng được…, đi biệt… Để ông được thảnh thơi… với cô vợ hàng thịt… Còn hơn là thế này…”.
Chính vì lâm vào hai bi kịch như trên, Hồn Trương Ba đã mời Đế Thích về để tỏ bày khát vọng chính đáng của mình: “Không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Hồn Trương Ba tha thiết xin trả lại xác anh hàng thịt và cho mình được chết vì ông nghĩ rằng: “ Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn”.
Nhưng Đế Thích vẫn muốn để Trương Ba được sống để tiếp tục có người đánh cờ cùng, có người khen mình là tiên cờ nên đã đề nghị Hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị ( con chị Lụa ) vừa mới chết. Nhưng cách giải quyết này của Đế Thích cũng vẫn là cách đi ngược lại với quy luật của tạo hóa, đâu khác chi với hoàn cảnh thực tại của mình. Và Hồn Trương Ba đã yêu cầu Đế Thích cho anh hàng thịt và cu Tị được sống, được trở về với gia đình và để Trương Ba chết.
Hồn Trương Ba nói: “ Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời nói ấy càng cho thấy rõ sự tắc trách của các quan nhà trời, càng sửa lại càng sai, càng làm cho con người rơi vào bế tắc, đau khổ, đánh mất chính mình.
Suy nghĩ của Hồn Trương Ba, dù không còn trên cõi đời này nhưng hình ảnh một ông Trương Ba hiền hậu, vui vẻ sẽ mãi sống trong lòng mọi người với tình yêu thương và lòng kính trọng. Đó chính là một khát vọng sống chính đáng. Vở kịch khép lại, kết thúc bằng cái chết của nhân vật Trương Ba nhưng lại lấp lánh tính nhân văn, triết lý. Đó là một hướng giải quyết phù hợp với lẽ tự nhiên, với quy luật đạo đức với con người.
Làm nên sự thành công của vở kịch, ta không thể không nhắc tới nghệ thuật xây dựng tình huống đầy kịch tính, lời thoại nhân vật sống động, chân thật, đi sâu vào nội tâm nhân vật để khắc họa lên nhân vật Hồn Trương Ba với những bi kịch nhưng đậm chất nhân văn. Lưu Quang Vũ đã thổi vào nền kịch nói Việt Nam sau 1975 một làn gió mới. Và chắc chắn sức sống của nó sẽ còn mãi trong lòng bạn đọc đến hôm nay và cả mai sau.
Ngoài Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba, Xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Bài Thơ Bác Ơi Tố Hữu 🌹 13 Bài Văn Mẫu Hay
Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch tài năng của văn học Việt Nam. Những tác phẩm của ông không chỉ mang tính thời sự mà còn mang giá trị nhân văn vô cùng lớn.
Tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt là tác phẩm thành công cả về mặt nội dung và nghệ thuật. Các màn đối thoại trong vở kịch không chỉ khắc hoạ được hình tượng nhân vật mà còn thể hiện được thái độ, cách nhìn nhận của tác giả về cách sống, về lẽ sống và giá trị đích thực của con người. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt và Đế Thích là những màn đối thoại có giá trị như thế.
Nhân vật Trương Ba là một hình tượng tiêu biểu đại diện cho vẻ đẹp của một tâm hồn thiện lương và trong trắng, không mang những ham muốn, dục vọng tầm thường. Khi ông bị chết oan do Nam Tào gạch sai tên họ, được nhập vào xác hàng thịt để sống lại cuộc đời mới cũng là lúc bi kịch xảy ra. Từ hôm đó, ông trở nên như một con người khác, mọi sự vụng về, cẩu thả, những sự thô tục trong xác anh hàng thịt đã khiến cho mọi người thân trong gia đình buồn bã, thất vọng, xa lánh ông.
Người vợ đầu ấp tay kề buồn khổ, đứa con dâu vốn hiểu chuyện cũng thấy đau đớn khi gia đình dần đổi khác, những đứa cháu vốn rất mực yêu quý và kính trọng cũng nhất quyết không nhận ông. Tất cả những điều đó khiến Trương Ba vô cùng đau khổ, không thể chịu nổi khi phải sống trong cảnh ngộ bi hài mà bất hạnh ấy, một tâm hồn thanh khiết không thể sống trong một thể xác xấu xa rồi dần đánh mất mình như thế được, Trương Ba đã tranh luận dữ dội với xác anh hàng thịt.
Thấy hồn Trương Ba tách ra khỏi thể xác mình, xác anh hàng thịt lên tiếng mỉa mai: ” Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt khốn khổ kia….”. Hồn Trương Ba cũng không chịu khuất phục những lời nói cay nghiệt và tàn nhẫn kia của anh hàng thịt. Hồn vẫn một mực cho rằng không thể sống với một thể xác dung tục và đồi bại kia, một thể xác mà chỉ biết đến những ham muốn tầm thường, một thể xác xấu xa đáng ghê tởm.
Những lời nói thốt ra của xác anh hàng thịt đều mang nét châm chọc, chỉ trích linh hồn Trương Ba, càng khiến Trương Ba đau lòng, hắn càng thắng thế, tỏ ra hài lòng, hả hê. Bất lực trước mọi lý lẽ xác hàng thịt đưa ra, hồn chấp nhận, chịu đựng, dằn vặt, dường như chính Trương Ba cũng đã bị đẩy vào đường cùng, không lý lẽ, không lối thoát, nỗi đau trong hồn Trương Ba cứ một lớn dần thêm, cứa nát vào bức tường thanh cao, đẹp đẽ của tinh thần mà bấy lâu ông vẫn giữ gìn, xây đắp.
Nội dung của cuộc thoại không chỉ đơn thuần là một cuộc giao tiếp, tranh cãi diễn ra bình thường mà nó còn mang tầng ý nghĩa sâu sắc. Trương Ba được Đế Thích trả về với sự sống bên người thân và gia đình nhưng đó lại là cuộc sống xấu xa, đáng hổ thẹn. Những gì ti tiện, bần hàn, dụng tục đang dần lấn át, ngự trị và tàn phá, gặm nhấm những gì cao quý, trong sạch bên trong tâm hồn.
Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác để bảo vệ chính mình và bảo vệ những suy nghĩ, quan điểm của bản thân chính là cuộc đấu tranh giữa tinh thần và vật chất, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa phần “con” và phần “người” trong một bản thể. Những giá trị của sự nhân hậu, lòng vị tha, những khát vọng cao cả, mãnh liệt luôn đối lập với những sự giả dối, ích kỷ, những khát vọng tầm thường.
Qua những trải nghiệm đầy đau khổ khi sống trong thân xác người hàng thịt, Trương Ba khi gặp Đế Thích đã thẳng thắn bày tỏ mong muốn “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, ông cũng cay đắng thừa nhận “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Trước sự cứng rắn của Trương Ba, Đế Thích đã hết lời can ngăn, ông cho rằng được sống đã là niềm hạnh phúc và sống ở đời không phải lúc nào cũng như ta mong muốn.
Đế Thích khuyên Trương Ba nhập hồn vào xác người hàng thịt nhưng Trương Ba đã từ chối. Để được trở về là chính mình, Trương Ba chấp nhận ra đi để trả lại xác người hàng thịt cho hồn người hàng thịt, trả lại một anh hàng thịt nguyên vẹn cho vợ của anh ta, nhờ Đế Thích mang hồn của cu Tị trở lại.
Từ hai màn đối thoại đó ta thêm hiểu được rằng, con người chính là sự kết tinh hài hoà giữa hình thức và nội dung. Để sống có giá trị, sống đúng nghĩa với đời sống phải được là chính mình một cách toàn vẹn, không thể ” sống nhờ, sống gửi” vào kẻ khác.
Cuộc sống xã hội ngày nay cũng vậy, không chỉ cần có một ngoại hình xinh đẹp, một hình thức mãn nhãn mà cần phải có sự thông tuệ về học thức, sự nhạy bén và một tâm hồn phong phú. Đánh giá một con người không thể chỉ đánh về về hình thức mà còn cả cốt cách, nhân cách của họ. Con người muốn trở nên có giá trị, cần phải dung hoà được hai thứ đó.
Ta vẫn thấy đau đây những kẻ chỉ vì mặt nổi, vì chức quyền, tham vọng mà tự bán đứng lương tâm nghề nghiệp của mình, họ chạy chức chạy quyền chỉ để có cái danh trong khi không đủ năng lực để đảm đương nhiệm vụ. Những kẻ vì muốn được ưu ái mà nịnh bợ, a dua. Những kẻ vì những ham muốn tiền bạc, của cải , thể hiện bản thân mà sẵn sàng vi phạm pháp luật buôn bán chất cấm, trộm cắp, cướp bóc tài sản người khác. Điều đó, thật đáng phê bình và lên án.
Những ham muốn về tiền bạc và danh vọng, quyền lực và sự nổi tiếng khiến con người dần trở nên đánh mất mình, họ tự dẫm đạp lên danh dự và nhân phẩm của chính mình để có được. Sau cùng, họ lại không thể hạnh phúc, cũng không thể mang lại hạnh phúc cho mọi người.
Vì vậy, đã sống là phải biết dành trọn tâm hồn mình cho đời sống, biết giữ mình không để vấy bẩn khi trong hoàn cảnh xấu xa. Không ai có thể sống họ cảm xúc của của bản thân mình, cũng không ai có thể sống thay cuộc đời mình cả. Phải nỗ lực, cố gắng, hoàn thiện bản thân cả về hình thức và tâm hồn, phải chinh phục được nấc thang của những giá trị cao đẹp bằng chính con người mình. Bởi mỗi người sẽ có một giá trị riêng và hạnh phúc nhất của đời người là khi được là chính mình.
Bằng ngôn ngữ đối thoại giàu tính triết lý, tình huống kịch hấp dẫn, lôi cuốn người xem, Nguyễn Quang Vũ đã tạo nên một màn đối thoại đặc sắc, mang đến cho người đọc những suy ngẫm, dư âm khó phai.
Chia sẻ 🌼 Phân Tích Đò Lèn Nguyễn Duy 🌼 Ngoài Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có bảy hồi, phần trích học sách giáo khoa là hồi kết. Thông qua bi kịch của Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc, người xem vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã chuyển thể thành vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích, Lưu Quang Vũ đã làm rõ khát vọng được sống là chính mình của Hồn Trương Ba.
Do phải sống nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay phải sống mượn, lệ thuộc nên bị nhiễm độc bởi sự tầm thường, dung tục của xác thịt thô phàm. Thấm thía nghịch cảnh của bi kịch sống không được là chính mình và bi kịch bị chính những người thân yêu cự tuyệt – Trương Ba đã quyết định châm nhang gọi Đế Thích để quyết chết trả lại sự trong sạch, vẹn nguyên của linh hồn.
Cuộc đấu tranh này phần thắng nghiêng về xác nhưng bản thân hồn Trương Ba đã không chịu lép vế, không khuất phục mà đã tìm mọi cách để được sống là chính mình – đây chính là nhân cách cao đẹp của Trương Ba. “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tôi không thể”; “không thể được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.
“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của cái bên trong và cái bên ngoài: “bên trong” chính là linh hồn, cảm xúc, tư tưởng, nhân cách cao đẹp của Trương Ba. Hồn là sự tinh anh chi phối điều khiển thể xác. Đối lập bên trong là “bên ngoài” – xác thịt thô phàm của anh hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, là bản năng, là nhu cầu tự nhiên, là dục vọng bản năng.
Sự tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh hồn đã nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa hiệp với nhu cầu bản năng. Đây chính là sự dằn vặt, đau khổ, trăn trở của Trương Ba. Cả hai không thể hoà hợp bởi không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.
Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống ấy vì “dưới đất trên trời đều thế cả”. Đế Thích chỉ ra rằng không chỉ Trương Ba đang sống trong cảnh trong ngoài bất nhất, mà mọi người đều như thế cả. Vì vậy Đế Thích khuyên Trương Ba đừng cố gắng làm viên bi lăn ngược vòng mà hãy chấp nhận, hãy biết cách thỏa hiệp, học cách chấp nhận.
Trương Ba đưa ra sự so sánh đồ đạc, vật chất và bản thân. “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”. Đồ đạc, của cải vật chất mượn của người khác đã là chuyện không nên; còn sống nhờ, sống gửi, sống ký sinh vào thân xác của kẻ khác là điều xấu hổ đáng lên án.
Trương Ba thẳng thắn: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã chỉ trích quan niệm sai lầm của Đế Thích bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Đế Thích, sống là tồn tại còn tồn tại như thế nào thì không cần biết. Với Trương Ba, sống không chỉ là sự tồn tại sinh học mà sự tồn tại ấy còn phải là sự tồn tại có ý nghĩa.
Những lời thoại của Trương Ba và Đế Thích ở phần này chủ yếu thiên về cuộc đấu tranh của Trương Ba – đó là cuộc đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản thân bảo vệ linh hồn cao đẹp. “Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này”.
Nhưng Đế Thích bác bỏ vì Đế Thích cho rằng tâm hồn đáng quý của Trương Ba không thể thay thế cho phần hồn tầm thường của anh hàng thịt. Trương Ba lập luận rằng: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta… chúng sinh ra là để sống với nhau”. Để khẳng định với quyết tâm của mình Trương Ba trở nên mạnh mẽ: “Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”.
Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống trong thân xác thằng bé chắc sẽ ổn”. Câu nói này của Đế Thích một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ đơn giản, phiến diện – sống là sự tồn tại. Thực chất của lối suy nghĩ này là xuất phát từ chính cuộc sống của Đế Thích. Tiên phật thánh thần chẳng bao giờ chết cho nên sống là để hưởng thụ. Lối sống này ảnh hưởng trực tiếp lên tư tưởng ấy dẫn đến những sai lầm của Đế Thích.
Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”.
Ông cũng khuyên nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là làm cho cu Tị được sống lại. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối cùng cũng thay đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở về với chính mình chứ không còn là “cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.
Hồn Trương Ba nhập vào cảnh vật quen thuộc trong gia đình và gắn bó trong trái tim những người yêu thương ông. Trương Ba đã phục sinh linh hồn mình trong trái tim của những người yêu thương. Linh hồn ông mãi mãi bất tử trong màu xanh cây vườn và bất tử trong những người yêu mến ông.
Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc về nhân cách, sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người đúng nghĩa. Ở đây hai hình tượng hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần con và phần người. Một bên đại diện cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm.
Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp xác và hồn, trong và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hòa giữa việc chăm lo cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Thông qua đó Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm hồn. Loại khác thì luôn coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc bản thân chỉ khư khư giữ cho linh hồn được cao đẹp.
Thông qua màn đối thoại giữa hai nhân vật Trương Ba và Đế Thích trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người. Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân.
Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn. Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt truyện dân gian. Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện. Có chiều sâu triết lý khách quan.
Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Rừng Xà Nu 🌳 15 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Hay
“Tác phẩm chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng”, ngược lại, một tác phẩm chân chính sẽ còn lưu động mãi những ý nghĩa sâu xa trong lòng độc giả. Hồn Trương Ba da Hàng thịt của nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ đã để lại cho người xem những suy nghĩ và niềm tin rất tích cực về cuộc sống qua đoạn kết rất có hậu.
Trương Ba – một con người đạo đức, hiền lành với tâm hồn trong sáng nhưng không may phải lìa đời do lỗi của Nam Tào. Nam Tào và Đế Thích đã nghĩ cách cho hồn ông nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết. Những tưởng được sống lại, được trở về từ cõi chết là điều rất may mắn cho ông và gia đình. Nhưng, thật đáng tiếc khi anh hàng thịt lại là người thô lỗ, cục cằn.
Nay mọi người khó mà nhìn nhận ra sự khiết tịnh của linh hồn Trương Ba bên trong cái thể xác đã có quá nhiều thói hư tật xấu khi còn sống. Trương Ba đã gặp phải rất nhiều rắc rối. Ông rơi và bi kịch của chính mình vì nhiều khi không thể làm chủ được bản thân. Đứng trước nguy cơ bị tha hóa về nhân cách, Trương Ba đã quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.
Sau cuộc đối thoại tranh luận với xác anh hàng thịt và Đế Thích, cuối cùng Trương Ba cũng đã được toại nguyện. Cảnh kết thúc có hậu cũng đã làm thỏa lòng người xem. Trương Ba không cần phải mượn thân xác của bất kỳ ai để được ở bên vợ con, người thân nữa. Ngay trong những thứ bình dị của cuộc sống hằng ngày vẫn luôn có sự hiện hữu của ông.
Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị đang ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa cuống quít vuốt ve con… Sự ra đi của Trương Ba đã mang lại sự sống mới cho cu Tị. Chị Lụa đã đớn đau tột độ tưởng chừng như sắp tuột mất đứa con yêu dấu khỏi tay mình, nay nó lại trở về khỏe mạnh vui cười quấn quít ngay cạnh bên. Niềm hạnh lớn lao vô cùng mà Trương Ba mang lại cho hai mẹ con mang ý nghĩa rất thiêng liêng và cao cả.
Không những thế, trái tim nhân hậu của Trương Ba đã gieo lên bao mầm non đạo đức cho con cháu. Cái Gái đã nâng niu, trân trọng từng quả na ông trồng, nó lấy hạt vùi xuống đất và nói: Chốn mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…
Dấu chấm lửng giữa dòng được đặt cuối tác phẩm như rót vào lòng người những nỗi niềm thương nhớ, và cũng là sự đồng tình, đồng thuận với sự ra đi mãi mãi của Trương Ba. Ông chấp nhận cái chết nhưng không có nghĩa là tâm hồn ông cũng chết. Ngược lại, những điều tốt đẹp ông đã làm, nay đang được con cháu ấp ủ, nâng niu. Nó sẽ mọc mầm, sẽ lớn lên, nối tiếp nhau như trái na mà cái Gái vừa hái và gieo trồng.
Nếu như lúc trước, cái Gái nhất quyết không chịu nhận Trương Ba bên trong cái xác anh hàng thịt, thậm chí nó còn tỏ rõ thái độ căm ghét, xua đuổi ông. Thì giờ đây khi Trương Ba đã chấp nhận cái chết, nó lại chấp thuận với những gì mà Trương Ba để lại. Điều ấy một lần nữa nói lên chân lý của cuộc sống: Chỉ khi được sống làm chính mình, cuộc sống mới có ý nghĩa trọn vẹn.
Không thể nào sống nương nhờ vào kẻ khác, vào những thứ không phải của chính mình. Gia đình Trương Ba dù trống vắng khi mất đi một người thân yêu, nhưng như vậy còn bình yên hơn là phải chấp nhận một vật thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
Trương Ba đã ra đi, nhưng những kỷ niệm, những dấu ấn tốt đẹp về ông vẫn còn lưu giữ mãi trong nỗi nhớ của mọi người. Vở kịch đã khép lại và mang đến cho người xem một triết lý sống thấm đẫm giá trị nhân văn, ngời sáng nhân cách cao đẹp của con người: được sống làm người là điều rất quý giá, thiêng liêng nhưng được sống đúng bản chất của mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi nó còn quý giá hơn.
Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống một cách tự nhiên, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Ở đó, hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị cao quý về tinh thần. Lưu Quang Vũ đã rất thành công khi xây dựng nên một vở kịch đầy ý nghĩa sâu xa. Dù đã nhiều lần được công diễn trên sân khấu, nhưng lần nào cũng khán giả đón xem và hưởng ứng rất đông đảo, nhiệt tình.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Những Đứa Con Trong Gia Đình 🌹 14 Bài Văn Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích Hình Tượng Hồn Trương Ba Ngắn Hay sẽ giúp các em học sinh trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Trương Ba vốn là một người làm vườn, hiền lành lương thiện, có đời sống thanh cao nhã nhặn, khéo léo, lại có tài chơi cờ, nên được người thân con cháu, và cả những người trong làng rất mực quý trọng. Không chỉ vậy khi nghe đến tài chơi cờ của ông, Đế Thích vốn là một vị tiên trên trời cũng hạ cố tới kết bạn và thường xuyên đấu cờ với Trương Ba.
Những tưởng cuộc sống của một người có tâm hồn thanh tao, lương thiện ấy sẽ gặp nhiều may mắn, tốt đẹp, thì một bi kịch không ai ngờ đã xảy đến. Chỉ vì sự sơ suất của Nam Tào, Bắc Đẩu – hai vị quan thiên đình phụ trách sổ sinh tử, mà Trương Ba bị gạch tên khỏi sổ sinh, phải chịu cái chết bất đắc kỳ tử, đầy oan khuất, để lại cho những người thân nhiều nỗi tiếc thương sâu sắc.
Ngay lúc ấy Đế Thích lại có việc đi vắng, hơn một tháng sau khi ông trở về thì mới hay tin, nhưng chuyện đã khó có thể vãn hồi. Vì tiếc thương một người bạn chơi cờ giỏi, Đế Thích đã thương lượng với Nam Tào, Bắc Đẩu sửa sai bằng cách cho Trương Ba sống lại trong xác của anh hàng thịt mới chết trong xóm, những tưởng mọi chuyện đã được vãn hồi, thế nhưng đây mới là lúc bi kịch bắt đầu. Khi mà hồn và xác là hai thể tách biệt, không tương thích với nhau, không chỉ khiến bản thân Trương Ba đau khổ, mà cả những người thân xung quanh ông cũng phải gánh chịu nhiều nỗi đau.
Sau khi được sống lại, diễn biến câu chuyện không đi theo hướng mọi người lại sống hạnh phúc bên nhau, hay theo như cách giải quyết của cốt truyện dân gian ấy là quan phán cho Trương Ba ban ngày ở bên nhà anh hàng thịt, còn ban đêm thì về nhà mình. Trái lại Lưu Quang Vũ tập trung và khắc họa nội tâm nhân vật khi được sống một cuộc đời mới, những diễn biến tâm trạng của một người đàn ông thanh cao trong một cái xác thịt đui mù.
Bi kịch thứ hai nghiêm trọng hơn cả bi kịch tha hóa ấy chính là bi kịch Trương Ba bị người thân chối bỏ. Còn gì đau đớn hơn, khi người ta sống lại với một mong muốn là được nối tiếp những hạnh phúc còn dở dang với gia đình, thì ở đây dường như sự sống lại kỳ dị của Trương Ba đã không chỉ đem lại đau khổ cho chính bản thân ông mà còn là sự dằn vặt đối với chính những người thân xung quanh ông.
Người vợ kết tóc vốn yêu thương và thấu hiểu ông nhất, thế nhưng nay vì chán chường với cảnh chồng thay đổi, vì cảnh chồng mình vốn thanh cao nhã nhặn nhưng lại mập mờ với người đàn bà khác, còn cả việc gia đình trở nên tan đàn xẻ nghé khi đứa con trai muốn bán cả khu vườn đi để hành nghề bán thịt. Vợ Trương Ba chính vì những lẽ ấy đã quyết định dứt áo ra đi để lòng được thanh thản, để không còn phải thấy cảnh trái ngang ấy nữa.
Đoạn kết của vở kịch ta lại thấy một Trương Ba mạnh mẽ và cố gắng bảo vệ lấy cái tâm hồn cao khiết thánh thiện của mình, cũng như để giải thoát cho tất cả mọi người khỏi cái bi kịch khởi nguồn từ ông. Câu nói “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, chính là sự thức tỉnh, ý thức sâu sắc của Trương Ba về việc con người ta không thể trong ngoài bất nhất, mọi thứ khác xa nhau khi mà cố chắp vá lại chỉ trở thành những sự gán ghép nực cười và vô lý, trở thành những nỗi đau, những bi kịch mà không ai có thể tưởng tượng được.
Con người ta chỉ thực sự sống là chính mình khi có sự thống nhất biện chứng giữa thể xác và tâm hồn, và hơn hết là cái ý chí tinh thần phải khống chế và điều khiển được cái xác thịt, để giữ được một phẩm giá tốt đẹp, chứ không phải là buông thả chiều theo những mong muốn tầm thường của thể xác, rồi trở nên đổ đốn, hư hỏng. Một chi tiết đắt giá khác của của vở kịch thể hiện được vẻ đẹp phẩm giá của hồn Trương Ba ấy là việc Đế Thích gợi ý cho hồn Trương Ba nhập vào xác của cu Tị, để sống một cuộc đời mới.
Quả thực rằng việc được sống tiếp, được tận hưởng hạnh phúc nhân gian hay là việc chết hẳn đối với Trương Ba cũng là một lựa chọn vô cùng khó khăn. Tuy nhiên Trương Ba đã nhất quyết từ chối, đồng thời cầu xin cho cu Tị được sống lại, còn mình thì chết hẳn, bởi lẽ bản thân ông thừa hiểu rằng mình không thể lại tái diễn bi kịch thêm một lần nào nữa, không thể dẫm vào vết xe đổ như với cái xác của anh hàng thịt nữa.
Chính vì vậy thà chết hẳn để bảo toàn được tâm hồn thánh khiết, cao đẹp của mình, đồng thời giành lấy một cơ hội sống cho cu Tị mới là lựa chọn tốt nhất. Hành động ấy đã thể hiện được vẻ đẹp đạo đức, cao thượng, và khao khát được hoàn thiện nhân cách của con người từ bao đời nay. Tuy rằng Trương Ba rời đi, thế nhưng ông vẫn sống mãi trong tâm trí những người ở lại, với những ấn tượng đẹp đẽ, tâm hồn thanh sạch, bao dung của ông sẽ được con cháu hằng ghi nhớ, kính trọng.
Thông qua cuộc đời và những bi kịch của nhân vật Trương Ba trong vở kịch, Lưu Quang Vũ đã đem đến cho người đọc, người xem những triết lý nhân sinh, những bài học thật sâu sắc. Trong đó quan trọng nhất là khẳng định sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện là thể xác và tâm hồn, đồng thời cũng cổ vũ, giáo dục con người phải luôn luôn đấu tranh để hoàn thiện nhân cách, phẩm giá của bản thân, không thể sống với lối sống trong ngoài bất nhất. Điều đó không chỉ làm bản thân đau khổ vì không được sống đúng với bản thân và còn gây nhiều đau khổ cho người khác nữa.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Đất Nước Nguyễn Đình Thi 🍀 12 Bài Mẫu Hay
Bài Phân Tích Khát Vọng Của Nhân Vật Hồn Trương Ba để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với lối văn sáng tạo, đa dạng.
Kịch là một thể loại văn học đặc sắc của văn học Việt Nam. Nhắc đến tác phẩm kịch tiêu biểu Việt Nam, không thể không nhắc tới “Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt” của Lưu Quang Vũ – một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học dân tộc. Đoạn kịch “Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt” đã để lại trong lòng độc giả nhiều suy tư về bi kịch và khát vọng được sống là chính mình của nhân vật Hồn Trương Ba.
Điểm nổi bật gây nhiều ám ảnh đầu tiên trong đoạn kịch là bi kịch của Trương Ba. Chuỗi bi kịch khởi đầu ở cái chết oan uổng của Trương Ba do sự tắc trách của quan trời. Trương Ba là ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, giỏi đánh cờ, hiền lành, yêu thương vợ con và tâm hồn trong sạch. Chỉ vì Nam Tào vội đi dự tiệc nên đã bắt chết nhầm. Đang sống cuộc sống êm ấm với gia đình lại đột ngột chết đi, đây là một bi kịch đau lòng.
Theo lời khuyên của “tiên cờ Đế Thích”, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai”, muốn trả lại công bằng cho Trương Ba bằng cách cho Trương Ba sống lại. Không phải sống hoàn toàn mà là hồn được tiếp tục sống trong thân xác của một người khác – anh hàng thịt mới chết gần nhà. Chính sự thay đổi này đã đẩy Trương Ba vào chuỗi bi kịch đầy đau khổ, dằn vặt. Con người vốn là tổng thể thống nhất giữa linh hồn và xác thịt, thế nhưng Trương Ba lại được sống mà không được là chính mình trọn vẹn.
Bời vì sống nhờ trong thân xác của người khác, ông rơi vào bi kịch bị tha hóa về nhân cách. Trước kia, Trương Ba là ông lão làm vườn chăm chỉ, khéo léo, luôn quan tâm vợ con, chăm lo cho các cháu, hòa thuận giúp đỡ xóm làng. Trong mắt những người thân yêu, ông là người chồng, người cha, người ông mẫu mực, đáng kính. Còn hiện tại, từ khi linh hồn sống lại trong thân xác của anh hàng thịt, ông trở nên thô lỗ, phàm phu. Xác thịt kia dù âm u, đui mù nhưng vẫn có sức mạnh riêng.
Có lúc linh hồn nhân hậu, trong sạch phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Đáng sợ hơn, linh hồn trong sạch ấy còn dần bị nhiễm độc bởi xác thị tầm thường của người đồ tể. Chính Trương Ba cũng nhận ra sự thay đổi của chính mình dù cố gắng phủ nhận: “Không! Ta vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Song cuối cùng vẫn phải ngầm thừa nhận mình đang dần đánh mất bản thân: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta.”
Tuy nhiên, rơi vào tấn bi kịch này, Trương Ba không dễ dàng cam chịu, buông xuôi mà có khát vọng vô cùng mãnh liệt. Khát vọng trước tiên bùng cháy lên là thoát ra khỏi nghịch cảnh phải sống nhờ trong thân xác anh hàng thịt. Trương Ba ý thức được tình cảnh trớ trêu khi sống mà bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
Ông thấm thía nỗi đau khổ và dằn vặt khi bản thân dần có xu hướng tha hóa, gia đình đau khổ, không thể chấp nhận sự vênh lệch giữa hồn và xác. Thái độ kiên quyết, dứt khoát của ông được nhấn mạnh qua một loạt các từ ngữ: không thể tiếp tục, không thể được, không thể trong lời thoại của mình.
Khát vọng mạnh mẽ nhất thiêu đốt trái tim người có tâm hồn trong sáng là khát vọng được sống là chính mình. Trương Ba muốn là mình một cách toàn vẹn, muốn là một chỉnh thể thể xác và linh hồn hòa hợp, vẻ bên trong và bên ngoài, suy nghĩ và hành động thống nhất với nhau. Trương Ba khát vọng sống, nhưng là một cuộc sống có ý nghĩa, không trộn lẫn sự dung tục, tầm thường.
Khát vọng của ông được thể hiện rõ nét trong cuộc tranh cãi giữa linh hồn và thể xác. Đây là cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai mặt của con người. Một bên là tiếng nói bản năng của thể xác, một bên là tiếng nói lý trí của linh hồn thanh cao, trong sạch, thể hiện khát vọng hướng thiện và khát vọng vượt lên những mong muốn tầm thường, u ám.
Không muốn tiếp tục cuộc sống nương nhờ, bị chi phối bởi xác người hàng thịt, Trương Ba dằn vặt và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Ông trả lại xác cho anh hàng thịt, lựa chọn cái chết thực sự để linh hồn được trong sạch, hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cái chết ấy là chi tiết đắt giá nhất bộc lộ khát vọng sống tốt đẹp của Trương Ba.
Có thể nói, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành cồn tình huống kịch đầy căng thẳng, đưa vở kịch đạt đến cao trào rồi giải quyết mâu thuẫn một cách logic, hợp lí. Những màn đối thoại, độc thoại được sáng tạo sắc nét không những giúp nhân vật bộc bạch suy nghĩ, tính cách mà còn giúp người đọc hiểu được những suy ngẫm, triết lý sâu sắc được gửi gắm.
Đặc biệt, tác giả khéo léo kết hợp giữa những vấn đề thời sự và vấn đề muôn thuở như lối sống giả dối, giữa những dục vọng u ám thấp hèn với những khát khao cao cả, tốt đẹp. Qua đó tái hiện rõ nét bi kịch và nâng niu khát vọng thanh cao của nhân vật. Đồng thời gửi gắm thông điệp nhân sinh ý nghĩa: vật chất và tinh thần trong đời sống con người cần hài hòa song song, không nên kì thị những đòi hỏi vật chất tầm thường, tôn trọng quyền tự do cá nhân, sống là chính mình nhưng cũng phải cố gắng trở nên tốt đẹp hơn.
Với những giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, đoạn kịch Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt xứng đáng là tác phẩm kịch xuất sắc của văn học Việt Nam. Để rồi rất nhiều năm tháng qua đi, những giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm vẫn làm rung động bao trái tim độc giả.
SCR.VN gợi ý 💧 Phân Tích Tiếng Hát Con Tàu Chế Lan Viên 💧 11 Bài Mẫu Hay
Phân Tích Vẻ Đẹp Tâm Hồn Nhân Vật Trương Ba Đầy Đủ Ý giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm cho mình nhiều kiến thức hữu ích.
Kịch là một loại hình nghệ thuật sân khấu phát triển mạnh mẽ ở nước ta từ thế kỉ XX. Đã có rất nhiều nhà soạn kịch và nhiều vở kịch thành công được ra đời vào thời kì này. Và cái tên Lưu Quang Vũ đã không còn xa lạ đối với ai yêu kịch, vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” lại càng không thể là một cái tên mới.
Tác phẩm được ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là thời kỳ đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới, nhằm giải phóng sức lao động, phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong đó có lực lượng cầm bút. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khai thác mạnh. Những vấn đề nóng bỏng, chống tiêu cực đã trở thành cảm hứng cho nhiều nhà văn. Và Lưu Quang Vũ cũng không ngoại lệ. Với mục đích phê phán những tiêu cực lúc bấy giờ, ông đã viết vở kịch này.
Những tiêu cực ấy được thể hiện rất rõ qua những xung đột trong đoạn trích. Theo ông, chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ muốn hưởng thụ trở thành phàm phu thô thiển. Ai cũng biết tâm hồn là quí, đời sống tinh thần là trọng nhưng không quan tâm đến đời sống vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn thì chỉ là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm.
Tình trạng con người phải sống giả, không dám được như bản thân đó là nguy cơ đẩy con người đến chỗ tha hóa do danh và lợi. Nếu sống vay mượn chắp vá, không hài hòa giữa tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của con người thực sự có hạnh phúc có giá trị khi được sống là chính mình. Đó là tất cả những gì mà tác giả muốn truyền đạt đến người đọc, người nghe, người xem.
Ngay từ nhan đề, ta đã có thể thấy được sự khập khiễng, mâu thuẫn. “Hồn” là phần tinh thần, là nội dung bên trong, là phần lí trí, tình cảm con người. Ở đây hồn Trương Ba là một người có lối sống thanh cao, nhân hậu, luôn đấu tranh với hoàn cảnh để được trở về với cuộc sống nguyên vẹn trong sạch thẳng thắn. “Xác” là phần vật chất, là hình thức bên ngoài.
Trong vở kịch, xác anh Đồ tể mà hồn Trương Ba buộc phải trú ngụ. Từ nhan đề, tác giả đã gợi ra được sự vênh lệch, khấp khểnh giữa bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, một mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, giữa vật chất – tinh thần, lí trí – bản năng, con người – hoàn cảnh, thanh cao – phàm tục.
Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, hồn Trương Ba đã bày tỏ sự chán ghét với cái xác mình nương nhờ, khinh bỉ hoàn cảnh mình đang sinh sống, khát khao sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Nhưng đối lập với hồn, xác bị ảnh hưởng bởi những dung tục tầm thường, đại diện cho kiểu người vừa chú trọng vật chất, bản năng, vừa là kiểu nhân vật đại diện cho nhiều người trong xã hội, quan tâm đến lợi ích của nhiều người đòi hỏi sự hài hòa giữa vật chất và tinh thần.
Bi kịch của hồn là nhận ra một con người cần phải hài hòa cả về vật chất, tinh thần, nhận ra mình đã bị tha hóa. Tiếp theo trong các cuộc đối thoại với người thân, hồn bị người thân xa cách, nghi ngờ. Triết lý của vở kịch được thể hiện rõ qua cuộc đối thoại của Trương Ba với Đế Thích.
Trương Ba bày tỏ khao khát được sống với chính mình, không nhờ vả, không giả dối, ông quyết định tìm đến cái chết chứ không chấp nhận nhập vào xác cu Tị. Kết của vở kịch có ý nghĩa triết lý sâu sắc, đó là sự gieo mầm cho những gì nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, là sự sống trong tâm hồn mỗi người. Trương Ba chính là tấm gương về lòng nhân hậu, thanh cao.
Giới thiệu đến bạn 🌿 Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà 🌿 19 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Lưu Quang Vũ được đánh giá là tài năng nổi bật của văn học Việt Nam thế kỉ trước. Ông đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc, có ý nghĩa nhân sinh đến tận sau này. Trong đó, tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được đánh giá cao về cả giá trị nội dung lẫn nghệ thuật. Phân tích nhân vật Trương Ba trong đoạn trích cảnh 7 của vở kịch, ta sẽ hiểu rõ hơn bi kịch của nhân vật Trương Ba khi phải sống trong thân xác của một kẻ khác.
Trong văn đàn văn học Việt Nam, cái tên Lưu Quang Vũ đã không còn xa lạ. Ông nổi tiếng với các tác phẩm truyện, thơ và nổi bật nhất là các tác phẩm kịch. Kịch Lưu Quang Vũ không chỉ được trau chuốt từng chi tiết mà còn chứa đựng nhiều triết lí nhân sinh về cuộc đời và con người.
Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt. Vở kịch xoay quanh cuộc đời của nhân vật Trương Ba, vốn là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp.
Ông có một tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ, là bạn cờ của Đế Thích. Vì sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu do gạch nhầm tên mà Trương Ba đã chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà.
Ngỡ tưởng có thể sửa được lỗi sai ấy nhưng ai ngờ rằng quyết định này lại đẩy Trương Ba vào bi kịch mới khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Trương Ba vì phải sống tạm bợ, lệ thuộc nên dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất tốt đẹp vốn có của mình. Sự thay đổi ấy khiến Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tìm cách tách ra khỏi xác hàng thịt. Qua những diễn biến tâm lý và các cuộc đối thoại của nhân vật, những nút thắt dần được gỡ bỏ, chứa đựng nhiều bài học sâu sắc về bản ngã, nhân sinh.
Đoạn trích cảnh 7 của “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là phân đoạn đặc sắc nhất của tác phẩm. Tại đây, những chuyển biến tâm lý và nhân cách của nhân vật Trương Ba được bộc lộ một cách rõ ràng nhất.
Cuộc chiến đấu lớn nhất của cuộc đời mỗi người là phải tự chiến đấu với chính bản thân mình. Dù hồn Trương Ba là một linh hồn riêng, thế nhưng thời gian sống trong xác hàng thịt sẽ không khỏi có những liên kết. Chính vì vậy, hồn Trương Ba đã dần thay đổi, nhiều khi suýt bị da hàng thịt điều khiển. Vậy nên, Lưu Quang Vũ đã xây dựng Trương Ba đấu tranh với chính mình trước tiên.
Trước hết, Trương Ba khẳng định mình vẫn là mình, “trong sạch, thẳng thắn”, vẫn “nguyên vẹn” không hề thay đổi. Ông cho rằng xác thịt chỉ là cái bề ngoài, “đui mù” và “không có ý nghĩa gì hết”. Nó sẽ không thể nào có tư tưởng, suy nghĩ, hoặc giả chăng nếu có thì sẽ là những suy nghĩ thấp kém, tầm thường mà thôi. Tuy nhiên lúc này, từ sự quả quyết, đanh thép, hồn Trương Ba lại dần dần đuối lí, “bịt tai lại”, tuyệt vọng tột cùng.
Trong khi đó, xác hàng thịt lại dùng những lí lẽ rất thực tế để lấn át hồn của Trương Ba. Anh ta cho rằng hồn không thể nào tự làm mọi việc, tất cả hoạt động đều phải nương nhờ thân xác mà thành. Anh ta không còn thái độ cợt nhả, giễu nại nữa mà mạnh mẽ hơn và cuối cùng chiến thắng được phần hồn. Có thể thấy, cuộc chiến giữa nhân cách và dục vọng, giữa phần con và phần người rất mong manh. Nếu không tin tưởng vào bản thân thì sẽ bị cái tầm thường lấn át đi khát vọng cao đẹp.
Sau khi chịu thua xác hàng thịt, hồn Trương Ba vẫn cố nương niềm tin vào những người thân yêu. Ông quả quyết bản thân vẫn là mình thuở trước, trong sạch và thanh cao. Thế nhưng trái ngược với sự chờ đợi, những người thân lại thấy Trương Ba đã thay đổi, đã không còn là người hiền hậu, “nguyên vẹn như xưa” nữa.
Trước hết, người vợ, người thân thuộc nhất với Trương Ba đau đớn, khóc lóc. Bà nhận ra Trương Ba đã không còn như trước mà đã đổi khác, “ông đâu còn là ông”, câu nói như đâm vào tim của Trương Ba. Cháu gái ông thì xua đuổi, cho rằng ông mình đã chết. Người ngồi trước mặt chỉ là một người bán hàng thịt vụng về, thô lỗ, phũ phàng mà thôi. Người con dâu thì thấu hiểu hơn, nhưng cũng nhận ra ông không còn là người cha hiền hậu như xưa nữa.
Từng người, từng người một, dù vị thế gia đình khác nhau, nhưng đều chung một nhận định về Trương Ba của hiện tại. Để rồi ông nhận ra rằng, bản thân quả đã thay đổi, đã bị phần xác lấn át đi những điều tốt đẹp của mình. Đến đây, mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm, đòi hỏi phải có cách giải quyết thỏa đáng nhất.
Đến đây, hồn Trương Ba đã vỡ lẽ và hiểu ra mọi chuyện. Ông đã giác ngộ ra rằng, con người sống cần phải có sự hoà hợp giữa linh hồn lẫn thể xác. Bản thân phải được là chính mình và sống một cuộc sống theo ý mình, như vậy mới là một cuộc sống có ý nghĩa. Ông khẳng định với Đế Thích: “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
Với nghệ thuật độc đáo, sử dụng đối thoại chân thực, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã khắc họa thành công nhân vật Trương Ba với những nét đẹp đáng trân trọng. Đồng thời thông qua việc phân tích nhân vật Trương Ba, chúng ta sẽ hiểu hơn về cuộc sống và quan niệm nhân sinh sâu sắc.
Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Sông Hương 🍃 15 Bài Phân Tích Hình Tượng Hay
Với mẫu Phân Tích Bi Kịch Của Nhân Vật Hồn Trương Ba Chi Tiết sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa.
Lưu Quang Vũ là người nghệ sĩ đa tài, không chỉ viết văn, làm thơ mà Lưu Quang Vũ còn là nhà soạn kịch tài năng bậc nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Trong những tác phẩm kịch của mình, Lưu Quang Vũ thường hướng đến những vấn đề xã hội nóng bỏng, qua đó thể hiện những quan niệm sâu sắc về đời người, kiếp người.Trong đó tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch nổi tiếng nhất khi bàn đến bi kịch của con người khi phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
Vở kịch xoay quanh nhân vật trung tâm là Trương Ba, vì sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu nên Trương Ba bị chết oan, để sửa sai Nam Tào đã nghe theo lời khuyên của Đế Thích, để cho hồn Trương ba nhập vào xác người hàng thịt. Tuy nhiên, từ lúc sống nương nhờ trong thân xác của người hàng thịt, Trương Ba phải đối mặt với bao bi kịch cay đắng.
Trước hết, bi kịch của Trương Ba là bi kịch bị tha hóa. Trương Ba vốn là người làm vườn hiền lành, tốt bụng có lối sống trong sạch nhưng từ khi sống trong xác của anh hàng thịt Trương Ba dần thay đổi, dần trở nên bạo lực, ham vật chất và có những cảm xúc không đúng đắn khi ở bên vợ người hàng thịt “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại”… Cũng có lúc vì quá tức giận mà Trương Ba đã mượn sức của người hàng thịt để đánh con trai đến “tóe máu mồm máu mũi”.
Trương Ba cảm thấy đau khổ hơn khi ông tự ý thức được sự thay đổi của bản thân và tự cảm thấy xấu hổ. Trương Ba dần trở nên tha hóa vì phải sống trong môi trường xô bồ, bát nháo, nhiều thị phi của người hàng thịt, mặt khác tuy chỉ là thể xác âm u đui mù nhưng xác người hàng thịt lại có tính cách, nhu cầu riêng và có sức mạnh để chi phối Trương Ba thực hiện những nhu cầu đó cho mình.
Trong cuộc đối thoại với xác người hàng thịt, Trương Ba đã vô cùng đau đớn khi phải sống cuộc sống không phải của mình “ Không. Không! Tôi không muốn sống như thế nào mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải cho tôi lắm rồi”. Đó là sự day dứt, đau khổ của một con người bị tha hóa và nhận thức được sự tha hóa của chính mình.
Bi kịch của Hồn Trương Ba được đẩy lên đỉnh điểm trong cuộc đối thoại với xác người hàng thịt và với những người thân. Đó là bi kịch của con người bị từ chối. Trước những thay đổi nhanh của Trương Ba, người vợ của ông đã vô cùng buồn bã và muốn bỏ đi để mặc Trương Ba với mối quan hệ không rõ ràng với vợ người hàng thịt “ông đâu còn là ông đâu, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.
Cái Gái, người cháu luôn yêu thương Trương Ba cũng kiên quyết chối bỏ người ông hiện giờ xuất hiện trước mặt nó, tâm hồn giản đơn của đứa trẻ cũng nhận biết những sự thay đổi từ Trương Ba, bởi người ông hiền dịu, quan tâm trước đây của nó không có đôi bàn tay giết lợn, bàn chân to bè như cái xẻng cùng những hành động vụng về làm gãy chồi non của cây sâm quý mới ươm hay làm gãy chiếc diều của cu Tị. Thậm chí cái Tị còn gọi Trương Ba là lão đồ tể, xua đuổi Trương Ba với thái độ quyết liệt “ Ông xấu lắm, ác lắm. Cút đi! Lão đồ tể, cút đi”.
Chị con dâu là người hiểu và kính trọng Trương Ba nhất cũng không tránh khỏi những thất vọng khi thấy thầy mỗi ngày một khác đi, dù biết thầy của bây giờ khổ hơn xưa nhiều lắm nhưng trước cảnh gia đình sắp tan hoang chị con dâu đã không giấu được sự thất vọng khi … mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”
Bác Trưởng Hoạt cũng không muốn chơi cờ với Trương Ba nữa vì nếu trước đây nước cờ của Trương ba thoáng đạt, linh hoạt thì giờ đây nước cờ của Trương Ba cũng ti tiện như chính con người của anh hàng thịt. Trước sự thất vọng, từ chối của người thân, Trương Ba vô cùng đau khổ và mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh trớ trêu của thực tại vì không muốn sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo.
Bi kịch của Trương Ba còn là bi kịch của con người không được sống là mình, phải sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo. Được tiếp tục sống bên cạnh những người thương yêu nhưng Trương Ba phải thực hiện trách nhiệm của người hàng thịt với công việc giết lợn, bán thịt hàng ngày. Không những thế, xác người hàng thịt có sức mạnh có thể chi phối hành động, suy nghĩ của Trương Ba khiến cho ông sống không được là mình, dần đánh mất đi những phẩm chất tốt đẹp và làm cho những người thân xung quanh thất vọng, buồn bã.
Đến cuối cùng, Trương Ba đã lựa chọn cái chết để được sống là mình toàn vẹn, nhường cơ hội sống của mình cho xác người hàng thịt, trả lại cho vợ của anh ta người hàng thịt hoàn chỉnh, mang cơ hội sống đến cho cu Tị còn bản thân tạm biệt người thân, gia đình để được là mình, bảo vệ được những giá trị tốt đẹp.
Thông qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác người hàng thịt tác giả Lưu Quang Vũ đã đặt ra mối trăn trở về quan hệ giữa thể xác và linh hồn, giữa nhu cầu vật chất và tinh thần bên trong một con người. Sự sống rất quý giá nhưng sống là mình, sống theo những giá trị tốt đẹp mà mình theo đuổi còn quý giá hơn. Để hạnh phúc con người cần dung hòa được những nhu cầu về vật chất và tinh thần.
Chia sẻ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ ❤️ 20 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Cùng đón đọc bài mẫu Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba Ấn Tượng với những ý văn ngắn gọn và súc tích để ôn tập nhanh tác phẩm.
Trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông. Vở kịch được tác giả hiện đại hóa từ cốt truyện dân gian, qua hệ thống nhân vật Lưu Quang Vũ đã đặt ra nhiều vấn đề bức thiết của cuộc sống lúc bấy giờ.
Qua cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn, Lưu Quang Vũ chuyển tải đến bạn đọc ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Qua các nghịch cảnh, ta thấy được vẻ đẹp của nhân dân lao động trong cuộc chiến thời bình chống lại cái ác, chống lại sự giả tạo và khát vọng hoàn thiện nhân cách, bảo vệ quyền sống đích thực.
Trương Ba bị chết oan uổng do sự vô tâm, tắc trách của Nam Tào, vì thế được Bắc Đẩu sửa sai, nhưng lại sửa sai một cách vô lý là cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt. Vậy là một linh hồn thanh cao, nhân hậu, ngay thẳng lại phải sống nhờ và lệ thuộc vào xác của anh hàng thịt. Linh hồn Trương Ba không sai khiến được mà còn bị xác thịt điều khiển lại, dẫn tới linh hồn bị nhiễm độc tầm thường. Chính vì ý thức được điều này, khiến Trương Ba dằn vặt, đau khổ và đưa ra quyết định sống độc lập.
Trước những lý lẽ của xác thịt, hồn Trương Ba nổi giận, khinh bỉ xác thịt nhưng phần nào cũng ngậm ngùi vì hắn có lý và Trương Ba trở lại xác thịt trong tuyệt vọng. Cuộc tranh cãi với xác thịt là bi kịch thứ nhất, vì xác thịt đã thắng. Còn bi kịch thứ hai là xung đột giữa Trương Ba và gia đình. Ông dằn vặt khi hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra những điều tệ hại cho dù ông không hề muốn. Tất cả những người thân đều xa rời ông vì hồn ông dần bị mờ khuất, chỉ còn lại thân xác anh hàng thịt thô lỗ hiện hữu trong nhà gây biết bao phiền toái, chướng tai gai mắt.
Màn kết của vở kịch sau khi đẩy những xung đột lên tới đỉnh điểm, hóa giải những nghịch cảnh, Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn tồn tại vĩnh viễn bên những người thân yêu của mình.
Một cuộc sống không đáng sống vì cái thanh cao phải dung hòa với cái thấp hèn thì chẳng phải sẽ thành bi kịch sao? Thể xác và linh hồn có mối quan hệ hữu cơ với nhau không tách rời. Xác thịt có nhu cầu mang tính bản năng, còn linh hồn mang tính chất thanh cao, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách.
Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn nhấn mạnh rằng khi con người ta phải sống trong cái tầm thường thì tất yếu sẽ bị nhiễm độc, cái tốt đẹp sẽ bị lấn át. Những xung đột từ bên trong con người thông qua cuộc đối thoại có tính giả tưởng giữa linh hồn và thể xác nhằm hướng tới vấn đề mang tính triết học.
Tất cả bi kịch xảy ra từ những tồn tại đầy nghịch lý, trái với lẽ tự nhiên khiến cái dung tục có cơ hội ngự trị, lấn át và đồng lõa những gì vốn thanh cao, tốt đẹp. Qua đó, cổ vũ cho cuộc đấu tranh bảo vệ cho những phẩm tính cao quý của con người nhằm hướng tới khát vọng trong sạch, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn để hoàn thiện nhân cách, để xứng đáng chức vị làm người.
Bài Phân Tích Nhân Vật Hồn Trương Ba Đạt Điểm Cao để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với lối diễn đạt sáng tạo, hấp dẫn.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một vở kịch rất nổi tiếng, đã từng được nhiều lần biểu diễn trên sân khấu với ý nghĩa truyền tải rất sâu sắc. Đó là một cuộc đại mâu thuẫn giữa linh hồn và thể xác với những quan niệm sống trái ngược nhau. Linh hồn trong sáng nhưng thể xác đui mù, đắm chìm trong những đam mê tầm thường, đen tối. Cuộc đấu tranh ngang sức ngang tài là một bài học giáo dục mang nhiều triết lý sâu xa cho người xem những khoảng lặng ngẫm nghĩ lại cuộc đời mình.
Tác giả của vở kịch là Lưu Quang Vũ – một nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Ông đã trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỷ XX. Trước đó, ông từng làm thơ, sáng tác truyện ngắn và vẽ tranh. Thơ Lưu Quang Vũ không sắc sảo và dữ dội như kịch nhưng giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trong và ngoài nước.
Nhân vật chính trong đó là Trương Ba, ông đánh cờ giỏi nên bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lý tưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ… mà bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo.
Đặc biệt thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.
Có thể nói, đây là một cuộc đấu tranh tuy diễn ra trong âm thầm nhưng lại mang sức mạnh ghê gớm của thể xác và linh hồn. Mà ở đó, linh hồn của Trương Ba luôn hướng đến những điều tốt đẹp, trong sáng, còn thể xác của hàng thịt chỉ hướng đến những ham muốn tầm thường như ăn uống, chè chén, dục vọng… Khi Trương Ba lên tiếng than thở, oán trách cũng là lúc ông thấy linh hồn mình đã bị vấy bẩn bởi thể xác.
Linh hồn buồn chán, thất vọng vì không thể nào tự điều khiển được xác thịt mặc dù sự tồn tại của cả hai bên hoàn toàn phụ thuộc vào nhau. Thật đáng buồn khi phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Linh hồn và thể xác không hòa hợp thì làm sao đạt được niềm mãn nguyện khi được sống, được tồn tại. Liệu rằng cuộc đời còn ý nghĩa gì chăng? Linh hồn vào thể xác không được ham mê ăn uống, hãy ngừng những ý nghĩ thèm muốn dục vọng, nhưng thể xác không nghe, cứ lấn tới.
Ông không ngần ngại cái thân xác kềnh càng của hàng thịt nhưng điều làm ông buồn chán là sự thô lỗ của hắn. Lúc này, nếu được làm chính mình dù chỉ là một lát thôi cũng sẽ là một ân huệ lớn lao cho Trương Ba. Nhưng cái hồn của ông đâu có hình thù. Không thoát ra được, ông tranh cãi trong tuyệt vọng với thân xác. Nhưng cái thân xác ấy lại càng đẩy ông vào sự đau khổ hơn. “Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến.
Sự mâu thuẫn của bên trong và bên ngoài của một cơ thể đã khiến biết bao nhiêu rắc rối đã xảy ra trong gia đình của cả hai bên. Để thay đổi suy nghĩ và thuyết phục sự chấp thuận của mọi người thật khó. Hình ảnh về một con người hiền lành, tử tế của Trương Ba đã ẩn sâu trong tiềm thức, trong lối mòn suy nghĩ của mọi người. Giờ đây, cái thân xác kềnh càng, thô lỗ của hàng thịt sẽ thay thế hình hài của Trương Ba trước đây. Đã thế, những hành động, việc làm của hàng thịt lại trái ngược với những suy nghĩ, sai bảo của Hồn Trương Ba.
Vợ hàng thịt đòi chồng, còn vợ Trương Ba thì vẫn chưa thể nào chấp nhận hoàn toàn được cái thân xác của hàng thịt đang tồn tại với tư cách cao quý của chồng mình. Mọi thứ dường như đảo lộn lên. Đến ngay cả cây cối, vườn tược, Hồn Trương Ba vẫn làm nhưng do thể xác hàng thịt kềnh càng nên ông không thể nào khéo léo như trước đây được nữa.
Đến giây phút này, Hồn Trương Ba không còn khát khao được tồn tại, được sống nữa. Bởi sống mà không được làm chính mình cũng chẳng có ích chi. Thậm chí còn gây thêm rắc rối cho mọi người xung quanh. Ông lại tìm đến Đế Thích để mong được giải quyết. Ông cầu cứu “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Toàn vẹn nghĩa là thể xác và tâm hồn phải hòa nhập vào nhau, thống nhất với nhau. Tâm hồn nghĩ sao thì thể xác sống như vậy.
Chứ không phải như bây giờ. Linh hồn trong sáng nhưng lại không thể nào chế ngự lại được những ham muốn của thể xác. Hồn Trương Ba thà là được chết nhưng chết để được làm chính mình còn hơn là sống như thế này. Cái Tí chết, nhưng suy cho cùng, Hồn Trương Ba cũng không thể nhập vào cái Tí được. Rồi mọi chuyện sẽ lại càng rắc rối hơn. Dù cái Tí cũng tốt, cũng được mọi người yêu quý. Nhưng vẫn là bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Trương Ba vẫn không được sống toàn vẹn.
Cuộc đời tốt đẹp của Trương Ba giống như những mầm non mà cái Gái đang nâng niu. “Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…”
Như vậy, vở kịch đặc sắc của Lưu Quang Vũ đã mang đến một bài học đắt giá cho người xem. Được sống làm người thật quý giá, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Phân Tích Vợ Chồng A Phủ 🌟 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao ❤️️15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Giúp Bạn Đọc Cảm Nhận Được Vẻ Đẹp Cao Quý Của Một Người Anh Hùng Vừa Tài Ba Vừa Lãng Mạn.
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Chữ người tử tù.
Dẫn dắt giới thiệu đến nhân vật chính của tác phẩm: Huấn Cao.
II. Thân bài
Vẻ đẹp của tài năng và khí phách
Tài năng hơn người:
Không chỉ có tài viết chữ “rất nhanh rất đẹp” mà còn có tài “bẻ khóa vượt ngục” – một con người văn võ toàn tài.
Người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp: cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Khí phách hiên ngang:
Tự do trong suy nghĩ, hành động: “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái”, thái độ “lãnh đạm” trước sự đe dọa của tên lính áp giải”.
Thái độ khinh bạc, coi thường quyền lực: Dưới mặt Huấn Cao, bọn lính coi ngục chỉ là là lũ tiểu nhân đang thị oai nên thời ơ, coi thường. Thản nhiên trước thái độ biệt đã của viên quản ngục, trả lời quản ngục trả lời: “Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng bước chân vào đây nữa”, chấp nhận mọi sự trả thù.
Vẻ đẹp thiên lương trong sáng
Coi thường của cải vật chất của Huấn Cao: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”
Trân trọng thiên lương của người khác: “Nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp như thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Người hướng thiện: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi…”.
III. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chữ người tử tù.
Cảm nhận chung về hình tượng nhân vật Huấn Cao.
Mời bạn tham khảo 🌠 Sơ Đồ Tư Duy Chữ Người Tử Tù Nguyễn Tuân ❤️️ Ngoài Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao
Huấn Cao – một vị anh hùng lý tưởng đứng hiên ngang bất khuất giữa trang văn đầy nghệ thuật và lãng mạn của nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Chữ người tử tù”. Người anh hùng ấy đến giây phút sắp kề dao vào cổ vẫn luôn thể hiện ý chí anh dũng và tấm lòng trong sạch của mình, quyết hy sinh chứ không bao giờ chịu khuất phục dưới chân kẻ thù. Và cũng thật đáng khâm phục cho ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã để lại cho đời một nhân vật lý tưởng với những vẻ đẹp kiêu hãnh, tự hào rất đáng để thế hệ sau noi theo.
Huấn Cao là một người đầu đội trời, chân đạp đất. Ông luôn đi theo tiếng gọi của chân lý, của những người nông dân nghèo khổ để cùng họ đứng lên đấu tranh quyết dành lại bằng được quyền sống và quyền tự do của chính bản thân mình. Nhưng không may, ông đã rơi vào tay chính quyền và bị chúng kết án tử hình.
Trong tác phẩm, ông không xuất hiện là một vị tướng đang cầm đao đánh giặc, hay đang chống lại bọn cường quyền ác độc mà lại xuất hiện với vị thế là một tử tù đang chờ ngày thi hành án. Tình thế éo leo ấy sẽ chẳng có gì đáng nói nếu ông cũng chỉ là một trong những kẻ tử tù bình thường khác. Nhưng cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông vẫn hiên ngang, vẫn ung dung bình thản.
Chẳng những thế, Huấn Cao còn là một người nghệ sĩ tài hoa với cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp. Đến nỗi tên cai ngục dù quanh quẩn suốt trong ngục tù cũng biết đến tiếng tăm của ông. Viết chữ, có thể rất nhiều người biết viết, nhưng viết rất nhanh và đẹp thì thật hiếm có. Bởi ở thời ấy, mọi người học chữ tượng hình.
Một anh hùng đầy khí phách vừa anh dũng kiên cường, vừa đậm chất nghệ sĩ tài hoa, vậy mà lại rơi vào tay của kẻ địch. Thật đáng tiếc. Nhưng cũng chính từ hoàn cảnh éo le ấy, ta lại hiểu thêm một vẻ đẹp cao quý nữa từ vị anh hùng này. Đó là một tâm hồn trong sáng, lương thiện và luôn trân trọng, đề cao cái đẹp. Với tính cách của mình, ông không sợ trời, chẳng sợ đất nhưng lại sợ “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Thậm chí, khi được cai ngục mở lời dành cho những quyền lợi đặc biệt, ông đã thẳng thắn chối từ với vẻ khinh bạc, coi thường: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Ngay trong lời nói của Huấn Cao đã thể hiện đầy sự sỉ nhục, kiêu ngạo. Nhưng ông đâu biết rằng người đang đứng trước mắt mình không phải là một tên cai ngục lố bịch với những mánh khóe man rợ, gian xảo như mọi người thường thấy.
Mãi cho tới khi thấu hiểu được tấm lòng biệt nhỡn liên tài của cai ngục, Huấn Cao mới bàng hoàng xúc động “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
Đến giây phút này, Huấn Cao mới cảm thấu được mọi chuyện. Ông đã thẳng thắn với lòng mình và nhận lời cho chữ quản ngục ngay. “Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Ông rất trân trọng nghệ thuật, trân trọng cái đẹp. Ông chẳng vì tiền tài hay lợi lộc mà đem cái tài của mình ra bán cho ai. Khí chất này khiến mọi người cảm phục và nể trọng ông hơn.
Và đúng như lời đã hứa, đêm ấy ngay trong ngục tù tăm tối, nhơ bẩn, Huấn Cao đã dành những nét chữ cao quý của mình cho cai ngục kèm theo lời nhắc nhở đầy ý nghĩa sâu xa: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?…
Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng lý tưởng Huấn Cao với những vẻ đẹp cao quý của một người anh hùng vừa tài ba vừa lãng mạn. Tâm hồn ông như một vị thần đầy tính lương thiện, tốt đẹp cho hậu thế noi theo.
Ngoài Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao, Đón đọc tuyển tập 🌹 Tóm Tắt Chữ Người Tử Tù 🌹 20 Bài Tóm Tắt Tác Phẩm Hay
Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao Học Sinh Giỏi giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm cho mình nhiều kĩ năng viết hay hơn.
Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dành trọn đời mình để viết nên những trang văn mà ở đó có một nguồn mỹ cảm dạt dào dành cho tất thảy những gì đẹp nhất trên đời. Viết rất hay về những thú chơi đẹp, Nguyễn Tuân cũng không bỏ quên cái đẹp ngời ngời như ngọc sáng trong nhân cách con người.
Có người nói sự nghiệp Nguyễn Tuân sẽ không thể toàn vẹn nếu thiếu đi “Vang bóng một thời” và “Vang bóng một thời” cũng sẽ khiếm khuyết nếu không có sự góp mặt của thiên truyện “Chữ người tử tù”. Huấn Cao trong tác phẩm là một nhân cách sáng và đẹp mà Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên bằng cả niềm trân trọng và tài năng của mình, gửi vào đó nhân sinh quan về cái đẹp một cách sâu sắc.
Huấn Cao được nhớ đến trước hết là bởi vẻ đẹp của một tài năng siêu việt, toàn diện cả văn võ. Bằng một cách rất tinh tế, nhà văn đã không để nhân vật của mình xuất hiện trực diện mà qua cuộc trò chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại. Nhưng dẫu là nhìn qua nhãn quan của những kẻ đối nghịch, tài năng của Huấn Cao vẫn không thể bóp méo. Như người xưa nói, “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, Huấn Cao đã bước vào trang văn Nguyễn Tuân như một hình tượng tuyệt mỹ.
Cái tài của ông Huấn là tài nghệ thư pháp. Là một người “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, danh tiếng của ông Huấn đã lan ra khắp một vùng tỉnh Sơn, đến tai cả những người như quản ngục và thơ lại, khiến họ cũng phải trầm trồ và dè dặt. Quả thực, tiếng lành đồn xa, tài viết chữ của Huấn Cao vốn đã thành danh bất hư truyền. Thú chơi chữ mà Huấn Cao say mê là một trong những nhã thú thanh cao của cổ nhân, là biểu trưng cho văn hóa cổ truyền dân tộc.
Những con chữ tượng hình nói lên nhân cách phẩm giá và chí khí của con người. Chính quản ngục cũng phải cảm khái: “Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông treo trong nhà là một vật báu ở đời.” Trong một xã hội mà Đông Tây bát nháo, ối a bông phèng, cái cũ thì chưa suy hẳn mà cái mới thì chưa kịp thay thế hết, Nguyễn Tuân là một nhà nho mang tâm thế bất hòa, bất mãn, bất lực với thực tại, xây dựng nhân vật với một tài năng siêu việt về thú chơi cổ truyền như một cách để nhà văn bày tỏ những tiếc nuối về một quá khứ vàng son đã qua nay chỉ còn vang bóng.
Khi Huấn Cao diện kiến trực tiếp với bạn đọc, thì người quân tử ấy còn được biết đến như một trang anh hùng nghĩa liệt với khí phách hiên ngang. Vốn là một người song toàn văn võ, bên cạnh tài thư pháp còn có tài “bẻ khóa và vượt ngục”, Huấn Cao là cái tên khiến những người trong ngục tù phải dè chừng. Trong mắt triều thần, ông là một người cầm đầu bọn phản nghịch, nhưng thực chất đó là một anh hùng đứng lên vì chính nghĩa, dám chống lại triều đình vì bảo vệ lẽ phải. Ông là hiện thân của một con người kinh bang tế thế, anh hùng cái thế.
Khi được đặt vào hoàn cảnh lao tù, hình ảnh Huấn Cao càng nổi bật lên với những vẻ đẹp khí phách hiên ngang lẫm liệt. Điềm nhiên bước vào nhà lao, hành động đầu tiên của Huấn Cao là dỗ gông, không mảy may đếm xỉa đến vương quyền trên đầu: “Huấn Cao khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh vào đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”.
Đó là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.
Sáng lên hơn cả trong nhân cách người tử tù là một thiên lương trong sáng, vững lành, có sức mạnh cứu rỗi những tâm hồn đang dần bị bôi đen. Đó là nhân cách của bậc đại trí, đại dũng, không bao giờ bị lung chuyển trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”. Một con người ý thức sâu sắc được thiên chức và phẩm giá của nghệ thuật. Một con người không bao giờ thị tài.
Đáng quý hơn, Huấn Cao không chỉ trọng thiên lương của mình mà còn trọng thiên lương của kẻ khác. Điều này được thể hiện trong cách ứng xử chân tình mà ông dành cho quản ngục. Khi chưa hiểu được tấm lòng quản ngục, ông khinh bỉ, coi thường y như coi thường một kẻ cầm tay đao suốt đời chỉ sống trong nhơ bẩn, sống vì phi nghĩa.
Nhưng có lẽ tài năng khí phách và nhân cách cao đẹp của ông Huấn thể hiện rõ nhất, tập trung nhất, hài hòa nhất ở cảnh cho chữ – cảnh mà Nguyễn Tuân gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Đêm đã khuya, chỉ sáng mai thôi là người tử tù phải vào kinh chịu án chém, nhưng ông Huấn vẫn trút hết tài năng sáng tạo vào ngòi bút và viết ra những con chữ vuông tươi tắn nói lên cái “chí khí tung hoành của đời một con người”. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa bạch như xua tan đi bóng tối ngục thất đầy màng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột.
Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc hay ánh sáng thiên lương làm cho hình ảnh tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, cái chết kề bên, ông Huấn vẫn “dậm tô nét chữ” trong tư thế của người nghệ sĩ chân chính đang làm chủ lao tù. Sự thăng hoa của tài năng và bản lĩnh phi thường của ý chí đã đồng hiện và sáng lên trong cảnh cho chữ ấy.
Huấn Cao còn hiện lên thật đẹp ở khoảnh khắc ấy trong vai trò của người hướng thiện, hướng đạo cho kẻ mê muội. Lời khuyên chân thành dành cho kẻ tri âm đã làm sáng lên vẻ đẹp ấy: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.
Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý, làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp chân, thiện, mỹ.
Vẫn cái chất Nguyễn Tuân ở đó, uyên bác và tài hoa, trong cả tư tưởng và cách biểu hiện. Nhà văn đã thật thành công khi xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc.
Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”.
Ngoài Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao, chúng tôi Gợi ý 💧 Sơ Đồ Tư Duy Về Tác Giả Nguyễn Tuân 💧 6 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
Cùng đón đọc bài mẫu Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao Ngắn với những ý văn hay và đặc sắc.
Nguyễn Tuân nổi tiếng là một nhà văn tài hoa, giàu cá tính. Ông đã niệm và theo đuổi suốt đời quan niệm “… mà thầy rằng yêu đẹp có nghĩa là quyết tâm bảo vệ đến cùng những gì mình đã nhận là đẹp”. Và trong rất nhiều cái đẹp mà ông cảm khái, theo đuổi ấy ta thấy có cái đẹp ngời sáng giữa cảnh lao tù tăm tối, cái đẹp của lụa trắng tinh bay những nét mực, cái đẹp từ sâu thẳm lòng người. Cái đẹp toát ra từ người tử tù Huấn Cao và “Chữ người tử tù”.
Trong tác phẩm, Huấn Cao là một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất, không có một sức mạnh quyền thế, bạc vàng nào có thể khuất phục ông. Hiện lên qua lời nhận xét của viên thơ lại và viên quản ngục là một người “chọc trời khuấy nước”, Huấn Cao đã dám đứng lên chống lại cái triều đình mục rỗng.
Bị gọi là giặc nhưng là vì nghĩa lớn, vì lý tưởng lớn nên điều đó có hề gì. Đến khi bị bắt giam, sắp lên đoạn đầu đài vẫn coi thường: Đến cái chết cũng chẳng sợ nữa… Huấn Cao có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng ông vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong hứng bình sinh, dù đang bị cầm tù. Dưới con mắt Huấn Cao, bọn cầm quyền chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc giữa một đống cặn bã.
Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi ông có cần gì nữa không, ông trả lời như tát vào đối phương: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần một điều, là ngươi đừng đặt chân vào đây”. Đó là cái khí phách, cái tư thế hiên ngang dù khi đang giữa cái nền xám xịt của ngục tù.
Là con người hiên ngang bất khuất nhưng Huấn Cao vẫn biết trọng cái bản chất tốt đẹp của con người. Trong phần người sâu thẳm mà đôi khi vì hoàn cảnh, người ta phải giấu kín, việc ông cho chữ và lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của Huấn Cao.
Huấn Cao là người tài hoa rất mực, bên cạnh cầm kỳ, thi, họa, ông còn có tài viết đẹp, chữ của ông nức cả một vùng, chữ ông đẹp lắm, vuông lắm. Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỷ. Ông biết cái tài của mình và không vì nó mà ai ông cũng sẵn sàng cho: “Đời ra cũng mới viết có bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn của ta thôi”.
Và cho chữ lần cuối cùng của ông là một ngoại lệ, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã xảy ra bởi vì cảm với tấm lòng, cho chữ có thể nói là một đoạn rất hay thể hiện tài năng của Nguyễn Tuân miêu tả, dựng cảnh và thể hiện tài năng của nhân vật Huấn Cao.
Cái cao đẹp đối lập với dơ bẩn. Chơi chữ đẹp, viết chữ đẹp là một nét đẹp cao, trang trọng thường diễn ra trong cảnh thanh khiết của thiên nhiên và con người. Song ở đây là cả một sự đối lập. Tuy nhiên, đối lập mà không có gì mâu thuẫn cả. Lấn át tất cả cái dơ dáy hôi hám của tù ngục, ánh sáng của đuốc, mùi thơm của mực, màu trắng của lụa, đã tỏa sáng lung linh.
Nhân vật Huấn Cao như nhiều nhân vật chính diện khác trong “Vang bóng một thời” là con người tài hoa.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Tham khảo bài mẫu Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao Ngắn Gọn, súc tích được nhiều bạn đọc quan tâm tìm kiếm sau đây.
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác của ông chia thành hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng. Ngòi bút của ông thiên về phương châm “vang bóng một thời – ăn chơi trụy lạc – chủ nghĩa xê dịch”. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm kiệt xuất trước cách mạng đã khắc họa thành công hình tượng Huấn Cao – một kẻ sĩ tài hoa, có tấm lòng thẳng thắn.
Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của triều đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát, thối rữa. Huấn Cao trong mắt của bọn lính là một kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề phòng. Đối với thầy thơ thì ông “văn võ đều có tài cả” còn đối với người quản ngục thì Huấn Cao là người “chọc trời quấy nước”, coi thường tiền bạc và bạo lực. Với những cách nhìn ấy, Huấn Cao là một người tài ba trong mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao bộc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều rất thoát phàm, rất độc đáo. Là một kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét lên với bất cứ ai. Không cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho mọi người nể phục.
Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời mến mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sùng bái và ngưỡng mộ như vậy. Chữ của ông như “một báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ của ông chính là sở hữu một vật báu trong thiên hạ. Huấn Cao không biết ông quản ngục luôn có một ước mong được sở hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ của ông viết ở trong nhà, chữ ông Huấn Cao đẹp và vuông lắm.
Một con người tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm rất trong sáng và ngay thẳng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép mình viết bao giờ”. Đây là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người thực sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất.
Nguyễn Tuân thực sự rất tài, tài đến nối đọc từng câu từng chữ của ông người ta cứ ngỡ như ông đang vẽ nên một bức họa thật sinh động giữa chốn nhân gian về một kẻ sĩ đáng trọng như Huấn Cao.
Huấn Cao còn là một người trân trọng tấm lòng thiên lương trong sáng trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, ông đã biết được tấm lòng của viên quản ngục và ngưỡng mộ trước tấm chân tình cũng như sự yêu mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người có thú vui thanh tao giữa chốn gông cùm nhơ bẩn này.
Huấn Cao đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc. Một con người biết trân trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối sống hướng đến vẻ đẹp chân, thiện, mỹ.
Khung cảnh cho chữ hiện lên ở cuối dường như là cảnh tượng khó quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Cảnh cho chữ diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục tù. Hình ảnh ba con người hiện lên trong cảnh tượng ấy thật đẹp, họ không còn là người tù, viên quản ngục nữa mà là những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đẹp.
Cảnh cho chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao vướng xiềng xích, tung bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái lạy” và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ảnh khi gấp trang sách lại.
Nhân vật Huấn Cao đã hiện lên rõ nét, oai phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn Tuân thực sự khiến cho người đọc không thể rời mắt khỏi trang viết. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang bất khuất giữa chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại.
Chia sẻ 🌼 Phân Tích Đò Lèn Nguyễn Duy 🌼 8 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nguyễn Tuân nổi tiếng là một nhà văn tài hoa, uyên bác, giàu cá tính. Ông là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Và trong rất nhiều cái đẹp mà ông cảm khái, theo đuổi ấy, ta thấy có cái đẹp ngời sáng giữa cảnh lao tù tăm tối, cái đẹp toát ra từ người tử tù Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”.
Trong tác phẩm, Huấn Cao là một con người sống hiên ngang bất khuất, không có sức mạnh quyền thế, bạc vàng nào có thể khuất phục ông. ” Con người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng còn biết có ai nữa…”. Một con người khẳng khái như vậy còn sợ gì cường quyền hay tham gì tiền bạc?
Là người chọc trời khuấy nước, không chịu được triều đình phong kiến ngày càng suy thoái, mục nát, Huấn Cao chống lại triều đình ấy. Bị gọi là giặc nhưng là vì nghĩa lớn, vì lí tưởng lớn nên điều đó có hề gì. Đến khi bị bắt giam, sắp lên đoạn đầu đài Huấn Cao vẫn hiên ngang, bất khuất “đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là…”.
Trong những ngày ở nhà giam tỉnh Sơn, Huấn Cao vẫn giữ phong thái ung dung, tự do, tự tại, không quan tâm đến bất kì ẩn ý nào trong cách cư xử đặc biệt của quản ngục. Ông thản nhiên nhận rượu thịt của quản ngục và coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Dưới con mắt Huấn Cao, bọn cầm quyền chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng.
Là con người chọc trời khuấy nước, hiên ngang bất khuất, không sợ bạo lực, cường quyền nhưng Huấn Cao lại coi trọng bản chất tốt đẹp của con người. Trong phần người sâu thẳm mà đôi khi vì hoàn cảnh, người ta phải giấu kín, việc ông cho chữ và lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của Huấn Cao.
Lời ấy là tiếng lòng, là tâm huyết của ông: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Ông yêu cái đẹp và trân trọng người biết yêu cái đẹp. Huấn Cao hiểu được tấm lòng quản ngục thì sẵn sàng cho chữ, bởi ông cảm là cảm cái bản chất thiên lương.
Huấn Cao là người tài hoa rất mực, đó là tài viết chữ đẹp, chữ của ông nổi tiếng cả một vùng, chữ ông đẹp lắm, vuông lắm. Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỷ. Ồng biết cái tài của mình và không vì nó mà ai ông cũng sẵn sàng cho: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”.
Và lần cho chữ cuối cùng của đời ông không phải là ngoại lệ bởi vì ông cảm tấm lòng của quản ngục, coi quản ngục như một tri âm, tri kỉ. Có thể nói, cảnh cho chữ ở cuối truyện là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Bởi ở đó, cái cao đẹp đối lập với cái dơ bẩn. Viết chữ đẹp là một sáng tạo nghệ thuật, thường diễn ra ở nơi thư phòng sạch sẽ, sáng sủa. Nhưng ở đây lại là phòng giam tối tăm, bẩn thỉu, hôi hám. Lấn át tất cả cái dơ dáy hôi hám của tù ngục, ánh sáng của đuốc, mùi thơm của mực, màu trắng của lụa, đã tỏa sáng lung linh.
Tất cả thể hiện nghĩa sâu sắc: cái đẹp có thể sản sinh ở nơi cái ác ngự trị, giữa mảnh đất chết bởi một người cũng sắp chết (một tử tù). Lời khuyên của Huấn Cao với quản ngục cho thấy, cái đẹp không thể cùng tồn tại với cái xấu, cái ác. Ở cảnh này, vẻ đẹp của Huấn Cao được thể hiện tập trung, rõ nét nhất. Qua đó, cho thấy tài năng của Nguyễn Tuân trong việc miêu tả, dựng cảnh và xây dựng nhân vật.
SCR.VN gợi ý 💧Phân Tích Cảnh Đám Ma Gương Mẫu ❤️️ 11 Bài Văn Hay
Bài Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao Ngắn Nhất giúp các em trau dồi thêm cho mình nhiều kiến thức văn học hay nhất.
Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, trước cách mạng tháng tám ông coi cái đẹp như là một thứ tôn giáo riêng của mình, ông tìm về cái đẹp ở thời vang bóng. Đó có thể là thú thưởng trà, ngắm trăng cầu kì, là cách ăn kẹo mạch nha,… tất cả đều được ông nâng lên một tầm cao mơi.
Trong những thú vui đó không thể không nhắc đến thú vui chơi chữ tao nhã được Nguyễn Tuân tái hiện trong tác phẩm Chữ người tử tù với nhân vật Huấn Cao. Tác phẩm không chỉ nói về một thú vui tao nhã mà còn nói lên cốt cách, khí chất của một con người tài hoa là Huấn Cao.
Huấn Cao là một nhà Nho, một chí sĩ yêu nước. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân không nói về học vấn của ông nhưng người đọc đã phần nào đoán định được tài năng văn chương kiệt xuất của ông. Nguyễn Tuân chỉ đề cập đến cái viết chữ đẹp đẽ, vuông vắn nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn của ông Huấn: “chữ ông đẹp lắm, vuông lắm”, có chữ ông treo ở trong nhà là niềm vinh dự, hạnh phúc của bất cứ ai. Và viên quản ngục cũng khao khát có được chữ của ông Huấn Cao. Trong những ngày Huấn Cao trong ngục, quản ngục đã có thái độ và cái nhìn biệt nhỡn với riêng ông.
Mộng lớn không thành, Huấn Cao bị bắt, giam vào ngục và chờ ngày bị xử chém. Vậy nhưng thử thách đó cũng là cơ hội để ông bộc lộ những vẻ đẹp khác của bản thân: vẻ đẹp của khích phách kiên cường và thiên lương trong sáng. Chữ Huấn Cao đẹp và là một báu vật đối với mọi người nhưng trước giờ ông chưa bao giờ vì bị đe dọa bởi quyền lực hay bị mê hoặc bởi tiền bạc mà cho chữ ai bao giờ. Đối với ông cho chữ là một việc thiêng liêng, bởi vậy cần phải tìm được đúng người biết nâng niu, trân trọng thì mới có thể cho chữ.
Là một người theo con đường Nho học, nhận thấy những bất công, ngang trái của thời đại, Huấn Cao đã dám lựa chọn một con đường khác, khởi nghĩa để chống lại triều đình thối nát. Khởi nghĩa thất bại, bị bắt ông đến nhà giam trong tư thế hiên ngang, bất khuất.
Đứng trước tên quản ngục, ông không hề khúm núm, sợ hãi, động tác dỗ gong mạnh mẽ dứt khoát, bất chấp những lời đe dọa của lính ngục: “Huấn Cao lanh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Hành động Huấn Cao cùng các bạn tù giỗ gông. Huấn Cao ở vị trí đầu thang gông – ngay trong tình thế bi đát vẫn đứng ở vị trí chủ soái.
Đằng sau một con người gang thép, bản lĩnh còn là hình ảnh một Huấn Cao có thiên lương trong sáng, một tấm lòng đầy dịu dàng. Khi biết được tâm nguyện hết sức cao đẹp của viên quản ngục, Huấn Cao đã không ngần ngại mà lập tức đồng ý cho chữ, ông ân hận thật lòng: “Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
Huấn Cao cảm động thực sự trước tấm lòng của viên quản ngục, bởi có mấy ai trong hoàn cảnh đề lao chỉ có lừa lọc và tàn nhẫn mà vẫn như được sở thích trong sáng, đẹp đẽ đến vậy. Có lẽ trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời, Huấn Cao đã tìm được cho bản thân người bạn tri âm, tri kỉ biết quý trọng và nâng niu cái đẹp.
Phẩm chất đẹp đẽ đó của Huấn Cao đã một lần nữa được tỏa sáng, được thể hiện trọn vẹn trong cảnh cho chữ, cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Thông thường người ta cho chữ và xin chữ ở những nơi sạch sẽ, yên tĩnh, tôn nghiêm, trang trọng. Cảnh cho chữ và xin chữ trong tác phẩm diễn ra ở nhà tù tối tăm, bẩn thỉu, xưa nay chỉ tồn tại cái xấu và cái ác, và đây cũng là đêm cuối cùng trước khi Huấn Cao chịu án tử hình. Ông đã dành những gì tinh hoa, đẹp đẽ nhất để viết lại những dòng chữ cuối cùng để lại cho đời.
Trong khung cảnh tối tăm, ẩm thấp ấy, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên miếng lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ. Những người đứng bên cạnh khúm núm trước đại diện của cái đẹp, của thiên lương, họ trân trọng, nâng niu từng con chữ mà ông Huấn viết lên. Những con người đó đã bị cái đẹp chinh phục hoàn toàn.
Không chỉ vậy, Huấn Cao còn mang đến sự cảm hóa chưa từng có đến quản ngục, khuyên quản ngục hãy rời xa nơi này, để giữ cho thiên lương dược lành vững, ở mãi nơi này cũng đến nhem nhuốc cái đời thương thiên. Viên quản ngục đáp trả bằng những hành động, cử chỉ khiến ta cảm động: bái lĩnh đón nhận, vái người tử tù một cái… Cảnh cho chữ là sự kết tinh vẻ đẹp nhân cách của nhân vật và kết tinh giá trị tư tưởng tác phẩm.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật mang nhiều dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn, đó là con người tài tử, tài hoa. Sử dụng thủ pháp cường điệu, phóng đại và đối lập để đậm tô các nét tính cách của nhân vật. Ngôn ngữ giàu chất tạo hình, dùng nhiều từ Hán Việt mang màu sắc cổ kính, gợi về cái đẹp của một thời vang bóng.
Qua nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã gửi đến thông điệp ý nghĩa về cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu xa, cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, ánh sáng sẽ chiến thắng bóng tối. Thông qua việc ca ngợi Huấn Cao tác giả tôn vinh những nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc, tôn vinh một trang anh hùng dũng liệt.
Ca ngợi Huấn Cao là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước. Đồng thời ông cũng thể hiện quan điểm thẩm mỹ tiếng bộ, ông cho rằng cái đẹp bao giờ cũng phải đi cùng cái thiện. Cùng với những nét nghệ thuật đặc sắc về ngôn ngữ, giọng điệu đã góp phần xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao.
Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh 🌳 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Huấn Cao Chi Tiết với cách diễn đạt câu văn logic và hấp dẫn người đọc.
Nguyễn Tuân là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “Chiếc ấm đất”, “Chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một Nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu, tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại.
Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao – coi nó “một vật báu ở trên đời”.
Chữ là “vật báu trên đời” thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.
Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch” và phải chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát.
Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội.
Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao có tài “bẻ khóa, vượt ngục” – điều đó chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do, bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”.
Huấn Cao còn là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”. Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.
Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại. Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người.
Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời người… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử.
Ở nhân vật Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mỹ.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Tự Tình Hồ Xuân Hương 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Vẻ Đẹp Độc Đáo Của Hình Tượng Nhân Vật Huấn Cao Văn Mẫu là tài liệu tham khảo hữu ích để các em chuẩn bị tốt nhất cho kì thi của mình.
Nguyễn Đăng Mạnh khi đánh giá về nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định rằng: “Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Các tác phẩm của ông thường xây dựng hình tượng nhân vật tài hoa trong chính nghề nghiệp của mình. “Chữ người tử tù” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. Nổi bật trong truyện là hình tượng của nhân vật Huấn Cao.
Trước hết, Huấn Cao được hiện lên với vẻ đẹp của tài năng và khí phách của một đấng trượng phu. Tuy đang mang trong mình trọng tội, trở thành một tử tù đang trên đường về kinh lãnh án. Nhưng Huấn Cao vẫn luôn giữ vững được cốt cách của bậc quân tử. Trong cuộc đối thoại của viên quản ngục và thầy thơ lại, Huấn Cao hiện lên với tài năng hơn người. Không chỉ có tài viết chữ “rất nhanh rất đẹp” mà còn có tài “bẻ khóa vượt ngục” – một con người văn võ toàn tài.
Đặc biệt nhất là thái độ của Huấn Cao trong những ngày chờ đến ngày lên kinh thi hành án. Dù thể xác bị giam cầm nhưng vẫn tự do trong suy nghĩ, hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái”, thái độ “lãnh đạm” trước sự đe dọa của tên lính áp giải”. Dưới con mắt của Huấn Cao, tất cả chỉ là một lũ tiểu nhân đang “thị uy”. Vì vậy, ông luôn tỏ ra khinh bạc.
Thậm chí trước sự biệt đãi riêng của viên quản ngục, Huấn Cao cũng coi đó là chuyện thường tình, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Thể xác bị cầm tù nhưng tinh thần thì hoàn toàn tự do. Nghe câu hỏi của viên quản ngục, Huấn Cao trả lời: “Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng bước chân vào đây nữa”.
Không chỉ vậy, đẹp đẽ đó chính là vẻ đẹp của một thiên lương trong sáng. Điều đó được thể hiện ở thái độ coi thường của cải vật chất của Huấn Cao: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”. Ông ý thức sâu sắc được thiên chức của nghệ thuật. Đáng trân trọng hơn đó là Huấn Cao còn biết trọng thiên lương của người khác.
Khi nhận ra tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao hết sức trân trọng và cảm mến: “Nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp như thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Để rồi tại nơi ngục tù đã diễn ra một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Giữa nơi ngục tù tăm tối, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Người tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng xích đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”.
Đó là một tâm thế thật ung dung của người cho chữ, đồng thời cũng cho thấy sự thăng hoa của tài năng và bản lĩnh phi thường của ý chí đã đồng hiện và sáng lên trong cảnh cho chữ ấy. Huấn Cao còn hiện lên với vai trò của người hướng thiện: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.
Lời nói của ông đã khẳng định rằng cái đẹp, cái tốt thì không thể nào sống cùng với cái xấu, cái ác. Lời khuyên chân thành đã cảm hóa được viên quản ngục để rồi “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Như vậy, qua truyện ngắn “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân đã khắc hoạt thành công hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang bất khuất. Đồng thời qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và tấm lòng yêu nước thầm kín.
Giới thiệu đến bạn 🌿Phân Tích Vịnh Khoa Thi Hương ❤️️9 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao Là Người Có Khí Phách Hiên Ngang Bất Khuất hay nhất để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với cách dùng từ ngữ sáng tạo.
Bậc thầy của ngôn ngữ – Nguyễn Tuân trước Cách Mạng là cây bút nổi tiếng của văn học Lãng mạn 1930-1945. Ông đi về ngày xưa cũ để nói cái đời hiện tại. Điều đó phản ánh rõ nét qua trang văn chương của ông. Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn ” Chữ người tử tù” thể hiện rõ tài năng của ông.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, Huấn Cao hiện lên là con người tài hoa, nghệ sĩ. Ông có tài viết chữ nhanh và đẹp. Tài đó là tài viết chữ Nho bằng bút lông, mực tàu. Tài đó nâng lên thành thi pháp, nâng người sở hữu tài thành người nghệ sĩ, nâng viết chữ thành sáng tạo cái đẹp, sáng tạo nghệ thuật.
Nhờ tài đó mà biến tên tuổi Huấn Cao thành danh , một thanh danh lẫy lừng. Quản Ngục khi nghe thơ lại nhắc đến Huấn Cao đã biết đến Huấn Cao qua lời đồn đại. Huấn Cao xuất hiện ở đoạn đối thoại như xuất hiện trong một màn sương khói của giai thoại. Chữ Huấn Cao trở thành báu vật khiến Quản ngục khao khát muốn có.
Không chỉ là người nghệ sĩ, Huấn Cao còn là một bậc anh hùng . Lí do khiến Huấn Cao nhập lao chứng tỏ ông là bậc anh hùng khi đứng đầu đội quân chống lại triều đình phong kiến đổ nát. Khi nhập lao, trước lời nói và hành động của lính áp giải, Huấn Cao với hành động “dỗ gông” và thái độ lạnh lùng, khinh bạc chứng tỏ một tinh thần khẳng khái của một bậc trượng phu không chấp những kẻ nhỏ con. Tại ngục giam, Huấn Cao luôn giữ vững thái độ ung dung, thản nhiên và tự tại.
Khi Quản ngục diện kiến, đứng trước người xét xử cho mình, ông vẫn giữ nguyên thái độ, không sợ sệt. Trả lời Quản ngục bằng thái độ lạnh lùng, xua đuổi chứng tỏ khí phách hiên ngang của một bậc anh hùng.
Ngày nhận hung tin đưa ra quan trường, trong khi Thơ lại và quản ngục lo lắng, bồn chồn ” tái nhợt người” “hớt hải, ngập ngừng” thì trái lại Huấn Cao không một chút lo lắng. Huấn Cao chỉ lặng nghĩ rồi mỉm cười. Một thái độ thản nhiên, điềm tĩnh đến sợ của một đấng quân tử anh hùng. Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân khắc hoạ sinh động hình tượng Huấn Cao- một anh hùng hiên ngang, khí phách.
Huấn Cao là người anh hùng dũng cảm, là người nghệ sĩ tài hoa và còn là người có thiên lương trong sáng. Khi nghe thơ lại nói ý nguyện của Quản ngục. Huấn Cao đáp ” nhất sinh không vì vàng ngọc, quyền thế viết câu đối” , ” mới chỉ viết cho ba người bạn thân”. Câu trả lời của Huấn Cao chứng tỏ nhân cách cứng cỏi trước uy quyền, tiền bạc. Ông còn cảm lòng biệt nhỡn người tài của Quản ngục. Hơn vậy còn thấy được tấm lòng trân trọng nghệ thuật, trân trọng cái đẹp của nhân vật.
Trong không gian tù túng của ngục tù, dưới ánh sáng leo lét của nến nhưng bừng lên ánh sáng của nghệ thuật, Huấn Cao nói những lời cuối với Quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?…
Lời khuyên của Huấn Cao với viên quản ngục chứng tỏ nhân vật không chấp nhận cái đẹp lẫn lộn cùng cái ác, muốn thưởng thức cái đẹp phải chăm lo, giữ gìn cái thiên lương. Lời khuyên chân thành của Huấn Cao khiến nhân vật như trở thành người khai sáng, người đi truyền đạo giáo. Quả thực, Huấn Cao là một con người có thiên lương trong sáng.
Nguyễn Tuân thật tài tình khi đặt Huấn Cao vào tình huống éo le, một cuộc kỳ ngộ để tôn lên vẻ đẹp của Huấn Cao – người anh hùng nghệ sĩ. Nghệ thuật tương phản đối lập của bút pháp lãng mạn cùng ngôn ngữ trau chuốt với nhiều từ Hán Việt xây dựng được hình tượng Huấn Cao đặc biệt, không lẫn với bất kì nhân vật nào cùng thời và sau này.
SCR.VN chia sẻ ☔Phân Tích Chiếu Cầu Hiền ❤️️ 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nguyễn Tuân được biết đến là nhà văn với phong cách tài hoa, uyên bác. Ông luôn nhìn con người dựa trên phương diện nghệ sĩ, đặc biệt là cái đẹp siêu việt, vượt lên trên cái tầm thường. “Chữ người tử tù” là thiên truyện thể hiện rõ nét nhất đặc điểm phong cách ấy của Nguyễn Tuân. Đặc biệt, cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục được đánh giá là xuất sắc bởi ý nghĩa nhân văn và giá trị nghệ thuật của đoạn trích.
Huấn Cao được miêu tả là một người tài hoa và khí phách, điều này được thể hiện qua tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp, hành động dỗ gông và câu nói khinh bạc với quản ngục: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”.
Bên cạnh đó, khi Nguyễn Tuân giới thiệu về quản ngục, nhân vật cũng được tái hiện là một “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Quản ngục sẵn sàng biệt đãi và mong mỏi xin được chữ của Huấn Cao. Vẻ đẹp của cả hai nhân vật được kết tinh và làm nổi bật nhất trong cảnh cho chữ – cảnh xưa nay chưa từng có.
Trước tiên, cảnh cho chữ bắt đầu từ việc Huấn Cao chấp nhận lời xin chữ. Khi quản ngục tiếp nhận công văn, ông “tái nhợt người đi” vì nghe tin ông Huấn sắp bị giải vào pháp trường. Huấn Cao nghe được mong mỏi của quản ngục, lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. (…)Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Lời nói của Huấn Cao như tỏa sáng nhân cách thiên lương và tấm lòng biết nâng niu nét đẹp trong tâm hồn người khác.
Cảnh cho chữ diễn ra trong hoàn cảnh “xưa nay chưa từng có”. Đó là thời gian đêm khuya và trong không gian oái oăm – buồng giam nhà tù. Nơi đây “chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Vị thế xã hội của người cho chữ và người xin chữ cũng có sự đối lập. Một người là kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, người kia là quan chức thuộc bộ máy cai trị của triều đình ấy.
Mọi thứ chuẩn bị cho cảnh cho chữ đều bất thường. Tuy nhiên, khi đặt họ ở vị thế nghệ thuật cả hai được xem là tri âm, tri kỉ, họ hiểu nhau bởi cả hai đều hướng tới cái đẹp vượt lên thực tại tầm thường, cả hai đều mang những vẻ đẹp của thiên lương trong sáng.
Trong cảnh cho chữ, vẻ đẹp của hai nhân vật đều tỏa sáng. Vẻ đẹp tài hoa và khí phách của Huấn Cao nổi bật hơn bao giờ hết qua hành động cho chữ: “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh “. Ông cho chữ cũng rất ung dung: thay bút con, đề lạc quản,…
Huấn Cao lúc này như một người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp, tương xứng với vẻ đẹp đã được tạo dựng từ phần trước. Trong tư thế gò bó cùng trói buộc vô hình rằng cái chết chém đang cận kề, Huấn Cao vẫn viết chữ vô cùng thoải mái như đang tự do ở chốn thư phòng.
Ý nghĩa nhân văn của cảnh cho chữ thể hiện qua tư tưởng cái đẹp dù trong hoàn cảnh nào cũng sẽ cứu vớt những người lầm đường, lạc lối. Nguyễn Tuân đã sử dụng thủ pháp đối lập, ông tạo nên sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa hoàn cảnh tối tăm với vẻ đẹp tỏa sáng của con người, giữa vị thế xã hội của người tù – quản ngục. Nhà văn đã tạo dựng không khí cổ kính nhằm mang đến sự thiêng liêng của nghệ thuật thư pháp. Qua đặc sắc nghệ thuật ấy, tư tưởng nhân văn càng tỏa sáng hơn bao giờ hết.
Có thể nói, cảnh cho chữ đã khắc họa vẻ đẹp của hai nhân vật – Huấn cao và quản ngục. Với nghệ thuật xấy dựng sự đối lập đặc sắc, đoạn trích đã thể hiện tư tưởng nhân văn đặc sắc – cái đẹp dù trong hoàn cảnh nào cũng đăng quang và cứu vớt những người lầm đường lạc lối. Bởi vậy có thể khẳng định, “Chữ người tử tù” là tác phẩm “gần đạt tới sự hoàn mĩ”.
Đón đọc văn mẫu 🍀Phân Tích Bài Ca Ngất Ngưỡng ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao Trong Cảnh Cho Chữ, một trong những phân cảnh đáng chú tâm khi phân tích cảm nhận tác phẩm.
Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm cái đẹp, ông khao khát xê dịch để biết được những cái mới, những cái hay của cuộc đời. Đặc biệt, ông quan niệm rằng mỗi một con người đều là những người nghệ sĩ tài hoa trong công việc của mình. Bằng ngòi bút tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã vẽ nên một cảnh “xưa nay chưa từng có” trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
Cảnh cho chữ của nhân vật Huấn Cao với người quản ngục hiện lên là một cảnh đắt giá, có giá trị nghệ thuật đặc sắc đối với nền văn học, nó cũng giống như cái cảnh đắt trời cho mà nhân vật Phùng chứng kiến trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Cái mà bạn đọc ấn tượng đậm nét với cảnh cho chữ chính là hoàn cảnh và con người hiện lên trong không gian chật hẹp, tù túng của chốn lao tù.
Chữ người tử tù có tên ban đầu là Dòng chữ cuối cùng, in trên tạp chí Tao đàn năm 1939. Sau đó được in trong tập Vang bóng một thời. Tập truyện này gồm 11 truyện, là kết tinh của tài năng uyên bác cũng như ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân. Truyện ngắn Chữ người tử tù kể về một người tài hoa, viết chữ rất đẹp có tên là Huấn Cao.
Ông đã đứng lên thay mặt người dân để chống lại chế độ phong kiến thối nát lúc bấy giờ nhưng lại bị cho là một tên cầm đầu đám phản nghịch. Và thế là Huấn Cao bị đưa vào ngục chờ ngày tử hình. Trong mấy ngày ở trong ngục, hình ảnh nhân vật Huấn Cao hiện lên là một con người có tài năng, trí tuệ hơn người, có khí thế bất khuất và thiên lương trong sáng. Cả ba điều này đều hội tụ rõ nét trong cảnh cho chữ ở cuối truyện.
Hoàn cảnh cho chữ trong truyện hiện lên thật éo le, khác thường. Thời xưa, người ta coi việc chơi chữ là một thú vui tao nhã, để thưởng thức nghệ thuật. Con người thường chơi chữ vào những đêm trăng sáng, khi phong cảnh nên thơ, hữu tình, họ làm vài chén rượu dưới ánh trăng và cùng nhau ngâm thơ, viết chữ.
Ấy thế mà Huấn Cao – một người có tài viết chữ đẹp nổi tiếng cả một vùng tỉnh Sơn – lại viết chữ trong ngục tù với cái “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Chữ ông Huấn “vuông lắm, đẹp lắm”, cả đời “cũng mới viết có bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn của ta thôi.
Hình ảnh người tử tù được Nguyễn Tuân miêu tả thật hiên ngang: “một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm vải lụa trắng tinh”. Biện pháp đối lập làm hiện lên trước mắt người đọc một cảnh tượng thật khác thường, trong không gian u tối, ẩm mốc ở nhà lao, một con người tài hoa đang viết những nét chữ trên tấm lụa trắng tinh, trái ngược hẳn với sự u uất nơi đây. Còn người quản ngục thì “khúm núm bưng chậu mực”. Ta lại thấy được sự đối lập một lần nữa.
Người quản ngục, một người có quyền thế, đang nắm trong tay sinh mạng của người tử tù thì lại khép nép, cúi đầu trước cái đẹp, còn người tử tù sắp phải chết thì lại ung dung, tự tại hơn bất cứ lúc nào. Nhà văn Nguyễn Tuân đã rất tài năng khi miêu tả cảnh tượng cho chữ hết sức nghệ thuật này.
Cái đẹp đã khiến cho con người ta quên mình, khiến cho hai nhân vật tượng trưng cho cái thiện và cái ác có thể cúi đầu, cùng nhau thưởng thức nghệ thuật mà quên đi thực tại. Người quản ngục không còn là một tên lính cai quản cứng nhắc, không còn hiện thân cho cái ác nữa mà như là một con người bình dị, biết trân quý cái đẹp. Tài năng viết chữ của Huấn Cao quả thực đã đạt đến độ phi thường, khiến cho người ta chấp nhận cúi đầu để xin chữ.
Cảnh cho chữ vừa cho thấy khí thế ung dung, tự tại của người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, vừa thể hiện những nét chữ tài hoa cùng thiên lương trong sáng của Huấn Cao. Song song cùng với đó cũng là nét đẹp của người quản ngục. Dù là đại diện cho cái ác, đang phục vụ và làm việc cho cái ác nhưng người quản ngục vẫn giữ được cái tâm lương thiện và say mê cái đẹp. Khung cảnh chốn ngục tù tù túng, chật hẹp và bẩn thỉu đến đâu thì ta lại càng thấy hai con người họ hiện lên thật đẹp đẽ, phi thường.
Chữ người tử tù quả thật là một tác phẩm khắc họa cái nét rất riêng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Cảnh đẹp hiếm có khi cho chữ cũng chính là cái nhìn của người nghệ sĩ này đối với cuộc đời. Rằng dù ở trong hoàn cảnh nào thì con người ta vẫn có những nét đẹp và phẩm chất đáng ngợi ca, đáng học hỏi.
Chia sẻ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ ❤️ 20 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Có thể khẳng định trong nền văn học Việt Nam Nguyễn Tuân là một người có tên tuổi lớn: “Nói đến Nguyễn Tuân mà chỉ cần gọi gọn ghẽ là nhà văn theo ý nghĩa thông thường đầy vinh dự của chữ đó e vẫn thấy thiêu thiếu thế nào. Nguyễn Tuân đó là một hiện tượng văn hóa phong cách. Con người ông, phong cách của ông cũng đẹp một cách độc đáo như câu văn ông.
Một câu văn một không hai trong nghệ thuật ngôn từ Tiếng Việt” (Phan Huy Chú). Thật vậy, Nguyễn Tuân không chỉ góp một phong cách mà ông còn góp được cho văn học Việt nam những tác phẩm hay. Tiêu biểu trong sáng tác của ông là tác phẩm chữ người tử tù. Đặc biệt qua đó ta thấy được nhân vật Huân Cao không chỉ anh hùng tài giỏi mà ông còn là người rất mực trân trọng thiên lương mà cụ thể ở đây là tấm thiên lương của viên quản ngục.
Truyện kể về nhân vật anh hùng Huấn cao dám một mình đứng lên chống lại triều đình phong kiến. Chính bởi lẽ ấy mà chúng ta thấy được những phẩm chất và tính cách của nhân vật. Huấn Cao là một người không những anh hùng mà lại còn rất có tài nữa mà cái tài ấy chính là tài viết đẹp. Bên cạnh nhân vật Huấn Cao ấy thì ta cũng thấy được một nhân vật cũng đáng quý ấy chính là nhân vật viên quản ngục. Hai người ấy trên lĩnh bình diện xã hội hoàn toàn trái ngược nhau.
Thế nhưng họ lại đồng điệu với nhau trong nghệ thuật. Viên quản ngục ấy mến cái tài viết chữ của Huấn Cao có sở nguyện cao quý rằng một ngày kia xin được chữ của Huấn Cao mà treo trong nhà. Cái sở nguyện cao quý cũng như tôn trọng cái đẹp kia phần nào thể hiện được quan niệm của nhà văn về cái đẹp. Có thể nói trong văn Nguyễn Tuân cái đẹp luôn thăng hoa ở mọi lúc mọi nơi mọi hoàn cảnh.
Tìm hiểu nhiều hơn 🔥Phân Tích Bài Thơ Khóc Dương Khuê ❤️️11 Bài Văn Hay Nhất
Những nhân vật trong các tác phẩm văn học của nhà văn Nguyễn Tuân thường là những người tài hoa, uyên bác. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân được đánh giá là cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” được xây dựng dựa trên hình tượng đẹp như vậy và tiêu biểu là nhân vật Huấn Cao xuất hiện trong chuyện với vai trò là một người tài hoa, khí phách hiên ngang, thiên lương trong sáng.
Truyện kể về nhân vật Huấn Cao – một kẻ cầm đầu quân phản loạn dám đứng lên chống lại triều đình. Khi được giải đến nhà giam ở tỉnh Sơn, vì cảm mến trước tấm lòng viên quản ngục ông đã đồng ý cho chữ. Và đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tình huống truyện vô cùng độc đáo. Huấn Cao là người cho chữ nhưng lại là tử tù chờ ngày ra pháp trường, viên quản ngục là người xin chữ nhưng đồng thời lại là người quản ngục nơi giam giữ Huấn Cao. Cuộc gặp gỡ đã tạo nên tình thế vô cùng kịch tính, làm nổi bật lên vẻ đẹp rạng ngời của nhân vật Huấn Cao.
Trước hết, nhân vật Huấn Cao bước ra với hình tượng được gắn ngay từ đầu là một người tử tù, cổ đeo gông, nhưng lại mang trong mình một tài hoa đó là tài viết chữ đẹp nổi tiếng khắp vùng. Với tài “bẻ khóa vượt ngục” dựa theo lời kể của viên quản ngục, lại có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp khiến cho viên quản ngục hết lần này đến lần khác mong muốn có được chữ của ông.
Tuy nhiên với vị trí là người tử tù, Huấn Cao lại có những hành động thể hiện khí phách hiên ngang của mình. Ông luôn thể hiện rằng thái độ khinh thường bọn lính qua hành động giỗ gông. Thêm vào đó là cái tính cách không chịu khuất phục trước quyền lực và tiền bạc. Với tình cách thản nhiên vô ưu chờ ngày ra pháp trường kèm theo đó là thản nhiên nhận rượu thịt từ tay viên quản ngục mà không cần mảnh may suy nghĩ.
Ngoài vẻ đẹp tài hoa uyên bác, một tính cách cũng khiến cho người đọc hiểu và ngưỡng mộ nhân vật Huấn Cao đó là thiên lương trong sáng. Kiêu bạc là thế, nhưng khi hiểu được tấm lòng chân thành của ngục quan, ông vui vẻ nhận cho chữ, mà còn tỏ ra cảm động. “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
Sau khi cho chữ, ông còn chân thành khuyên bảo viên quản ngục. Huấn Cao ca ngợi thiên lương, tức là cái bản chất tốt đẹp của con người: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của nhân vật Huấn Cao vậy.
Như vậy, qua hình tượng nhân vật Huấn Cao khiến cho người đọc hiểu thêm được về sự tài hoa, uyên bác, hiểu được thế nào là cái đẹp và niềm đam mê cái đẹp. Ngoài ra, nó còn là sự hy sinh cho cái đẹp và cái tâm thế luôn luôn bảo vệ cái đẹp. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn.
Có thể nói “Chữ người tử tù” với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.
Gửi đến bạn 🍃Phân Tích Thu Điếu Nguyễn Khuyến ❤️️15 Bài Văn Hay Nhất
Bài Mẫu Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao Đạt Điểm Cao để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với cách dùng từ ngữ logic, sáng tạo.
Nguyễn Tuân được đánh giá là bậc thầy của ngôn ngữ. Các tác phẩm của ông đều xây dựng được những nhân vật – họ đều là những nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Nổi bật lên là Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.
“Chữ người tử tù” ban đầu tên là “Dòng chữ cuối cùng”, được in trên tạp chí Tao đàn năm 1938. Sau đó được đưa vào in trong tập “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân. Tập truyện bao gồm mười một truyện kết tinh tài năng sáng tác của nhà văn. Huấn Cao hiện lên là nhân vật trung tâm với vẻ đẹp được đánh giá là “toàn thiện, toàn bích”.
Trước hết, Huấn Cao hiện lên với hình ảnh một con người có tài viết chữ rất đẹp. Qua lời nhận xét của viên quản ngục thì “Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông treo trong nhà là một vật báu ở đời”. Từ lâu, ông Huấn Cao đã nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn nhờ tài năng viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”. Trong xã hội xưa, cái tài của ông khiến cho người đời phải ngưỡng mộ, thán phục, ai ai cũng muốn xin một chữ của ông để đem về treo trong nhà. Nét chữ của Huấn Cao không chỉ đẹp mà còn thể hiện hoài bão tung hoành của cả một đời người.
Nhưng không chỉ là tài năng mà Huấn Cao còn hiện lên với một khí chất hơn người khi được đặt vào hoàn cảnh chốn lao tù. Bị bắt với tội danh phản nghịch nhưng thực chất Huấn Cao lại là một anh hùng dám đứng lên vì chính nghĩa, vì nhân dân. Chứng kiến cuộc sống của nhân dân lầm than, Huấn Cao cảm thấy thương xót và phẫn nộ với triều đình đã mục nát. Chính vì lẽ đó, ông không hề run sợ mà vẫn hiên ngang trước việc làm của mình.
Hình ảnh Huấn Cao với khí thế bất khuất được thể hiện qua chi tiết: “Huấn Cao khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh vào đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Nguyễn Tuân đã gợi tả lên hình ảnh người anh hùng ngang tàn, muốn phá bỏ xiềng xích dưới ách nô lệ. Điều này càng thể hiện rõ nét hơn qua chi tiết Huấn Cao không hề muốn nhận biệt đãi từ người quản ngục. Ông Huấn dứt khoát tuyên bố rằng: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều.
Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây”. Sau câu trả lời là thái độ thản nhiên đón nhận sự trả thù về thể xác. Huấn Cao đã coi cái chết nhẹ tựa như lông hồng – một tinh thần “uy vũ bất năng khuất” của người anh hùng trong thiên hạ. Dù sắp chết nhưng ông chẳng hề sợ hãi kẻ đại diện cho luật pháp, quyền lực ở nhà giam – viên quản ngục. Cũng coi sự biệt đãi như một thú vui bình sinh.
Cuối cùng đó chính là cái thiên lương trong sáng, nhân cách cao cả của ông Huấn Cao. Điều đó được thể hiện qua cảnh cho chữ – cảnh tượng được nhận xét là “xưa nay chưa từng có”. Trước đó, Huấn Cao tự nhận rằng: “Đời ta cũng mới viết có bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn của ta thôi. Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”.
Con chữ của ông không bao giờ được viết bừa bãi mà phải quý lắm, trân trọng lắm ông mới trao tặng những nét chữ “tung hoành cả đời người” của mình. Vậy mà ông lại cho chữ một người xa lạ là người quản ngục, cũng bởi cảm nhận được thiên lương trong sáng cùng tấm lòng biệt nhỡn liên tài.
Cảnh cho chữ hiện lên thật đẹp giữa người trân trọng từng con chữ và người viết chữ “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh”, người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng nhưng vẫn toát lên nhuệ khí tài hoa vượt bậc. Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn khuyên: “Ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Đối với ông, cái đẹp không thể tồn tại cùng với cái xấu xa, tàn ác.
Như vậy, Huấn Cao chính là nhân vật điển hình cho phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mạng. Những nhân vật trung tâm của ông đều là những người có tài năng phi thường, phẩm chất tốt đẹp.
Chia sẻ cùng bạn 🌹Phân Tích Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc ❤️️14 Bài Văn Hay Nhất
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn xuất sắc trên văn đàn Việt Nam. Ông viết rất nhiều thể loại nhưng tiêu biểu hơn cả đó chính là tùy bút, truyện ngắn và một trong những tác phẩm nhận được nhiều sự chú ý nhất của ông đó chính là tác phẩm Chữ người tử tù. Trong tác phẩm Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao.
Chữ người tử tù được rút trong tập Vang bóng một thời. Nhân vật chính trong tác phẩm chính là Huấn Cao, một con người hết sức có trách nhiệm trước thời cuộc. Huấn Cao là một người văn võ song toàn, thiên lương trong sáng. Là hiện thân tiêu biểu cho hình tượng khí phách cùng với tài hoa hơn người.
Trước hết ta bắt gặp ở nhân vật Huấn Cao đó chính là tư thế hiên ngang bất khuất, một con người mang nét đẹp khí phách hào hùng. Điều đó được thể hiện khi Huấn Cao bị bắt vào ngục. Lần đầu tiên Huấn Cao xuất hiện chính là qua lời nói chuyện của thơ lại và viên quản ngục.
Trong tờ phiếu trát nói về sáu người tù chịu án chém sắp chuyển về nơi viên quản ngục đang cai quản để thi hành án. Trong đó Huấn Cao chính là “thủ xướng”. Quản ngục từ lâu đã nghe danh về Huấn Cao, là một người “văn võ toàn tài”. Nhân vật Huấn Cao đã xuất hiện một cách gián tiếp như vậy.
Thế rồi Nguyễn Tuân đã cho Huấn Cao xuất hiện một cách trực tiếp với những hành động thể hiện sự khí phách của mình đó là: “vỗ cái gông nặng bảy tám tạ xuống thềm đá”, “đánh thuỳnh một cái”. Thái độ coi thường, không thèm chấp sự dọa nạt của lính áp giải. Mặc dù là người tử tù nhưng vẫn thản nhiên nhận rượu thịt mà viên quản ngục đưa tới, thậm chí ông còn coi đó là một cái hứng bình sinh vẫn thường làm.
Đồng thời cũng cho thấy ông là một người có lòng tự trọng, không ham danh lợi và sống đúng với lương tâm, với cá tính của mình. Huấn Cao còn thẳng thắn đáp trả khi biết viên quản ngục xin chữ của mình: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
Huấn Cao còn hiên ngang bất khuất ở chỗ ông coi khinh tất cả những kẻ đại diện cho giai cấp thống trị, những kẻ lợi dụng quyền thế mà áp bức, bóc lột dân lành. Huấn Cao chỉ coi những tên đó là một đám “tiểu dân thị oai”. Nguyễn Tuân đã cho ta thấy một Huấn Cao thản nhiên đối mặt với tất cả mọi thứ, một con người có thể tự do ngay chính nơi tù ngục giam cầm.
Có thể nói kẻ thù, giai cấp thống trị có thể giam cầm ông về thể xác chứ không thể giam hãm tâm hồn của ông. Huấn Cao có lần còn trả lời thẳng thắn trước sự cung kính của viên quản ngục khi đưa rượu thịt cho ông rằng: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”.
Ở Huấn Cao ta còn thấy ở ông là một người hết sức tự trọng. Không vì tiền bạc, lợi ích mà sống trái với lương tâm của mình, sống luồn cúi trước ách thống trị của kẻ thù. Cá tính của ông còn được thể hiện qua lời miêu tả “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Đây cũng chính là lý do vì sao ban đầu ông không chịu cho viên quản ngục chữ.
Huấn Cao quan niệm rằng chỉ có thiên lương trong sáng, tấm lòng biệt nhỡn nhân tài, yêu thích cái đẹp thì mới đáng quý, đáng trân trọng. Đây cũng là điều mà khi Huấn Cao biết được tấm lòng “biệt nhỡn nhân tài” của viên quản ngục thì ông mới thấu hiểu được tấm lòng yêu cái đẹp của quản ngục và quyết định cho viên quản ngục chữ là tạo nên một cảnh kinh điển cho tác phẩm đó chính là cảnh cho chữ.
Huấn Cao là một người rất khẳng khái, sẵn sàng nhận sai, sẵn sàng bày tỏ tâm tư, suy nghĩ của mình với tri kỉ. Khi biết tấm lòng của viên quản ngục ông đã phải thốt lên rằng: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Thêm vào đó ông còn đưa ra lời khuyên cho viên quản ngục: “Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê nhà mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi rồi mới nghĩ tới việc chơi chữ.
Ở đây, trong trốn lao tù khó giữ được thiện lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.” Có thể thấy đây là lời khuyên trân thành của Huấn Cao bởi ông như đã coi viên quản ngục là một trong những tri kỉ của mình mà nhắc nhở. Đồng thời cũng qua lời khuyên trên ta có thể thấy được ở nhân vật Huấn Cao giống như một nghệ sĩ tài hoa, là người có sự tồn tại của cái tài, cái đẹp và cái thiện.
Qua những phân tích trên có thể thấy rằng nhân vật Huấn Cao mang những vẻ đẹp đẽ phi thường. Ở ngay chốn lao tù, ngay trước cái chết nhưng ông không hề cảm thấy e sợ mà còn tìm thấy tri kỉ của đời mình. Đây là một hình tượng để lại nhiều ấn tượng cho độc giả, mang theo chiều sâu tư tưởng của tác giả khi quan niệm về giai cấp thống trị và bị trị.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Lẽ Ghét Thương ❤️️ 11 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
10 Bài Văn Phân Tích Đoạn Trích “Nỗi Sầu Oán Của Người Cung Nữ” (Ngữ Văn 10) Hay Nhất
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 5
Những người con gái trong thời phong kiến luôn chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, khi họ sinh ra trong một xã hội trọng nam khinh nữ. Một chế độ đa thê, vua chúa, những người con gái chỉ là vật mua vui cho người con trai mà thôi. Chính vì vậy tác giả Nguyễn Gia Thiều đã viết lên bài thơ Cung oán ngâm, để thể hiện sự ai oán của những người con gái trẻ đẹp được vua sủng hạnh một thời gian rồi bị bỏ rơi không thương tiếc. Cuộc sống lạnh lẽo trong cung cấm, cô đơn lẻ loi khi sống đời cá chậu chim lồng không lối thoát.
Đoạn trích “Nỗi sâu oán của người cung nữ” chính là đoạn thơ hay nhất của Cung oán ngâm. Nó đã lột tả được tâm trạng của người con gái khi tuổi xuân phơi phới nhưng lại phải chịu cảnh cô liêu, lẻ bóng trong lầu son gác tía. Những câu thơ thể hiện sự da diết, ai oán của người con gái khi có một thời được nhà vua nâng niu, yêu mến nhưng những ngày vui thật ngắn ngủi, giờ đây cô bị bỏ rơi không thương tiếc, như bông hoa bị ong bướm hút hết mùi hương, giờ chẳng có gì để chúng lưu luyến. Những con ong bướm đó đang vui vẻ bên bông hoa mới, khiến cô gái cảm thấy cay đắng bẽ bàng cho kiếp hồng nhan của mình.
“Ngày sáu khắc, tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh, tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tĩnh mịch, bóng đèn thâm u”
Những câu thơ thể hiện sự cô liêu, của người con gái trong không gian của bốn bức tường lầu son, thời gian như dài đằng đẵng. Người cung nữ đã đếm từng nhịp của tiếng chuông thời gian trôi đi chậm chạp, mỗi giờ mỗi khắc như dài hơn khi người con gái đang mong tin nhạn. Tin vui từ nhà vua, sự mong chờ nhà vua tới thăm mình, nhớ tới mình dù chỉ một chốc lát thôi, khiến người con gái cảm thấy ngày tháng thật như dài hơn. Người cung nữ ăn không ngon, ngủ cũng không yên giấc, giấc ngủ như chập chờn, bởi sự hoang hoải trong tâm hồn người cung nữ bị thất sủng. Giật mình trong tiếng chuông đêm làm cho cô cảm thấy nỗi buồn trong lòng mình càng thê lương hơn bao giờ hết.
“Tranh biếng ngắm trong đồ tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứng tủi, ngồi sầu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa”.
Trong những câu thơ này thể hiện sự khắc khoải trong chờ bóng người xưa trong nỗi buồn tới mức tuyệt vọng. Tâm trạng của người cung nữ như ngổn ngang trăm mối, cảm thấy nỗi sầu trong lòng mình càng lúc càng nhiều hơn bởi sự chờ mong không mang lại kết quả như mong muốn, mà càng lúc càng tuyệt vọng hơn. Sự buồn phiền trong lòng làm cho cô gái tủi phận, đứng cũng buồn, ngồi cũng buồn, nhìn phong cảnh xung quanh những bông hoa như héo tàn, theo thời gian, cảnh vật yên ắng tĩnh lặng khiến cho người cung nữ càng thêm hiu hắt.
“Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ”.
Người cũng nữ cảm thấy xót xa thương cho thân phận của mình, khi xưa cô xinh đẹp biết bao người ước ao, ngưỡng mộ. Bản thân cô đã từng được nhà vua yêu mến sủng ái, nhưng nay thì sao khi nhan sắc tàn phai, người xưa quên lời hẹn ước, quên những phút ái ân mặn nồng để cô một mình vò võ ngày nhớ đêm mong quanh bốn bức tường. Nàng thương cho mình. Nhan sắc phai tàn. Tuổi xuân phai nhạt. Nàng cảm thấy bất hạnh và vô duyên:
“Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng”
Trong câu thơ này, thể hiện sự ai oán, bẽ bàng của người cung nữ. Cô gái ví mình như một bông hoa đã hết hương sắc, còn người con trai cô yêu nhà vua như một con ong chỉ chuyên đi hút mật những bông hoa đẹp. Sau khi đã thỏa mãn rồi thì con ong đó lại đi tìm bông hoa khác để tiếp tục công việc hút mật của mình, bỏ lại bông hoa kia với sự bẽ bàng, ai oán… Câu thơ như những lời trách than, ai oán của người con gái với thói vô tâm phụ tình của người con trai. của nhà vua khi đã thỏa mãn lòng tham của mình, thì bỏ rơi không thương tiếc. Những câu thơ vô cùng thấm thía, thể hiện nỗi buồn rung động lòng người, thể hiện sự nhân văn cao cả của tác giả Nguyễn Gia Thiều khi nhìn thấy cảnh lẻ loi, cô đơn của người cung nữ một thời nổi tiếng.
“Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ơi để giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa!”
Trong bốn bức vách kia chỉ có nỗi buồn bủa vây lấy người cung nữ. Một nỗi buồn thê lương, không lời nào tả hết. Nàng mong sao có thể chết đi cho nhẹ lòng còn hơn là bị giết chết dần chết mòn bởi nỗi sầu, nỗi cô đơn yên lặng của không gian tĩnh lặng này. Người con gái oán trách người xưa đã giết cô trong nỗi buồn, trong sự u sầu, chờ đợi đằng đẵng. Cái chết này còn đau đớn hơn nghìn lần khi bị ban rượu độc, hay một dải lụa trắng để tự kết liễu. Sự cô đơn, u sầu, này có thể làm con người ta chết chết đau đớn, dần mòn, tàn úa…theo thời gian.
“Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không?
Đang tay muốn rứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!”
Người cung nữ trách ông tơ, bà nguyệt đã xe duyên nhầm cho cuộc đời nàng để giờ đây cuộc sống của nàng bị dở dang, muốn rứt đứt sợi tơ hồng được xe duyên, muốn đạp bốn bức tường vô cảm kia để thoát ra ngoài sống kiếp tự do nhưng không được nữa. Nàng như con chim bị giam trong lồng son gác tía, dù được sống đầy đủ lá ngọc cành vàng ăn uống đủ món nhưng mãi mãi cô đơn, lẻ loi một bóng sẽ chết dần vì u ám buồn chán. Bài thơ lên án tục tuyển cung nữ được diễn ra hàng năm để mang vào cung vua, giúp nhà vua tiêu khiển, mua vui. Tục lệ này đã làm cho nhiều cô gái đánh mất tự do tuổi thanh xuân của mình trong cung cấm. Sống đời cô đơn lẻ bóng, chết dần chết mòn trong lãnh cũng lạnh lẽo.
Phần lớn những cung nữ này đều phải chôn vùi tuổi trẻ nhan sắc của mình một cách uổng phí, chờ khi già yếu, sắp chết thì được triều đình cho về quê hương an nghỉ tuổi già và chết. Nhưng họ đều sống cô quả, không có được phép lập gia đình hay kết hôn có cuộc sống hạnh phúc như người bình thường, đó chính là sự thiệt thòi của người cung nữ thời xưa. Bài thơ thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả Nguyễn Gia Thiều với những số phận những người con gái trẻ đẹp thời xưa bị ép vào cung làm cung nữ rồi chết dần chết mòn trong đó.
Bài thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật tinh tế đặc sắc của tác giả. Với thể thơ song thất lục bát tác giả đã phác họa bức tranh lạnh lẽo của người con gái khi bị thất sủng, chôn vùi tuổi xuân trong lồng son gác tía.
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 3Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 5
Thời xưa đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Các bậc vua chúa thì còn nhiều gấp vạn lần như vậy bởi năm nào họ cũng tuyển hàng trăm cung nữ vào cung. Đó toàn là những thiếu nữ trẻ đẹp với tuổi đời còn rất trẻ. Một khi đã bước vào cung là coi như đoạn tuyệt với gia đình, không còn cơ hội gặp gỡ người thân, thậm chí là cả cha mẹ. Cuộc sống lúc này loanh quanh trong cung cấm, không biết ở bên ngoài bức tường thành kia có những chuyện gì đang diễn ra. Số phận đáng thương ấy đã làm lay động nhiều nhà văn, nhà thơ trong số đó có Nguyễn Gia Thiều. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc được đánh giá là có tiếng nói tố cáo sâu sắc nhất tập tuyển cung nữ của vua chúa thời bấy giờ.
Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc lúc đầu được vua yêu chuộng nhưng không lâu sau lại bị vua bỏ rơi. Tuổi thanh xuân chôn vùi nơi cung cấm. Cùng với đó là nỗi cô đơn, hờn tủi mỗi ngày một lớn dần lên. Nó dày vò nàng khiến cho nàng héo mòn. Nàng oán trách nhà vua phụ bạc rồi xót thương cho thân phận của mình. Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ đã diễn tả một cách rõ nét nhất tâm trạng của nàng. Bị thất sủng, sống cô đơn nên nàng sầu oán. Hình ảnh cô đơn của người cung nữ hiện lên ngay từ những câu thơ mở đầu:
Trong cung quế ảm thầm chiếc bóng
Đêm năm canh trông ngóng lần lần
Ở giữa chốn xa hoa lẽ ra người ta phải vui vẻ, hạnh phúc ấy vậy mà người cung nữ lại sống trong cảnh tối tăm, u uất. Nàng như một cái bóng vật vờ chẳng ai thèm để ý đến. Lời tâm sự diễn ra trong đêm tối càng làm nổi bật hơn bóng dáng bé nhỏ và sự cô đơn của người cung nữ. Đêm xuống là lúc các cung nữ ngóng trông nhà vua, nhưng với nàng lúc này càng ngóng trông lại càng vô vọng. Nàng biết mình đang ở trong hoàn cảnh nào, biết ai là kẻ gây ra cho mình nỗi bất hạnh này. Cuộc sống của nàng lúc này chẳng khác nào đã chết bởi nàng bị giam hãm trong 4 bức tường thành, sống trong cảnh chăn gối lẻ loi. Hình ảnh nhà vua hiện lên qua lời oán trách của cung nữ chẳng khác nào một kẻ bạc tình:
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi
Cách dùng từ của tác giả thật sâu sắc. Nhà vua mà lại chơi khăm, chơi ác. Lại ác với chính cung nữ từng kề cận với mình thì tàn nhẫn quá. Người phụ nữ vốn mỏng manh, yếu đuối đang được hạnh phúc bỗng bị đẩy đi như tội đồ. Nàng như một món đồ chơi hỏng bị vứt đi rồi bị lãng quên. Để khắc họa rõ nét hơn nỗi cô đơn của người cung nữ, tác giả còn thêm vào khung cảnh tráng lệ của cung cấm:
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ
Gác tựa lương thức ngủ thu phong
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng
Gương loan bẻ nửa dải đổng xẻ đôi
Mặc dù sống trong tự tiện nghi nhưng đối với nàng những điều ấy chẳng có ý nghĩa gì. Nhìn nó, nàng chỉ khổ tâm hơn mà thôi. Thất vọng vì cuộc đời, nàng không còn cách nào khác là thở than, oán trách. Nàng oán trách một cách gay gắt:
Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ
Thâm khuê vắng ngắt nhu tờ
Của châu gió lọt rèm ngà sương gieo
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ
Dấu dương xa đám cỏ quanh co
Lầu Tẩn chiều nhạt vẻ thu
Gối oan tuyết đóng chăn cù giá đúng
Qua câu thơ, người đọc thấy được nỗi mong ngóng đến héo mòn của người cung nữ. Nó khiến cho nàng ngày ngày u uất, bức bối đến nghẹt thở:
Lạnh lùng thay giấc cô miên
Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u
Nếu cuộc đời chưa từng có lấy một ngày vui thì có lẽ con người ta cũng quen với hoàn cảnh. Nhưng nếu như cuộc đời đã từng hưởng hạnh phúc mà sau đó lại bị vùi dập thì con người ta rất dễ chán chường. Người cung nữ trong bài thơ này đang rơi vào hoàn cảnh như vậy. Đêm xuống là lúc mà nàng càng cô đơn hơn, đáng thương hơn. Trong phòng ấm áp, thơm tho nhưng tịch mịch, vắng lặng. Thứ ánh sáng leo lét từ ngọn nến chẳng đủ xua tan bóng đêm và tăm tối trong tâm hồn của nàng. Đêm nào nàng cũng mong chờ như vậy nhưng đáp lại nàng chỉ là cái bóng của chính mình:
Tranh biếng ngắm trong đó tố nữ
Mặt buồn trông trên cửa nghiễm lâu
Một mình đứng tủi ngồi sầu
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa
Hình ảnh bóng dáng cô độc của người thiếu nữ cứ lặp đi lặp lại càng làm tăng thêm vẻ đáng thương của nàng. Nàng kiệt quệ cả về thể xác lẫn tâm hồn. Nàng không chỉ buồn mà nàng còn oán hận:
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải
Ngán trâm chiểu, bước lại ngẩn ngơ
Hoa này bướm nỡ thờ ơ
Để gầy bông thắm, đổ xơ nhụy vàng
Trong cung cấm, người ta giết nhau bằng nỗi u sầu. Người cung nữ đay nghiến cuộc đời:
Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa
Trong câu thơ chứa đựng sự căm phẫn mà qua đó người đọc cũng thấy được sự tàn ác của chế độ đa thê. Chính cái quyền tự cho mình được có nhiều cung nữ của vua chúa đã cướp đi quyền tự do của biết bao cô gái. Cái hạnh phúc mà họ có thể có được cũng quá ngắn ngủi để rồi họ phải căm hận suốt quãng đời về sau. Họ vẫn sống ở trong cung cấm nhưng không có niềm vui. Tâm hồn của họ bị hủy hoại mỗi ngày. Họ không chết nhưng sống không ra sống. Như người cung nữ trong bài thơ, nàng cũng muốn bứt mình ra khỏi cuộc sống đọa đày này. Tuổi xuân mỗi ngày cứ thế trôi qua trong tuyệt vọng thì hỏi không oán trách sao được. Tác giả Nguyễn Gia Thiều đã đồng cảm với số phân của người cung nữ. Ông vừa thể hiện được cái khát khao của người cung nữ lại vừa thể hiện được nỗi uất hận của nàng:
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ
Xe thế này có dở dang không
Dang tay muốn dứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra
Đoạn trích đã làm nổi bật lên 2 cảm xúc trái ngược nhau: một bên là buồn chán, một bên là khát khao hạnh phúc. Tất cả đã tạo nên một làn sóng trữ tình dào dạt. Nàng như đang cố gắng vùng vẫy để thoát ra khỏi nỗi cô đơn của mình nhưng càng cố gắng thì chỉ càng thất vọng. Cung cấm đâu vào là nơi dễ dàng ra vào như mong muốn. Tác giả không chỉ nói lên được nỗi khổ của người cung nữ mà còn tố cáo tội ác của vua chúa thời phong kiến. Qua đây, người đọc thấy được tấm lòng nhân đạo của ông. Nội dung đoạn trích là tiếng nói thiết tha đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ.
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 3
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 7Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 3
Quê hương nhà thơ Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) ở lànG Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc (nay thuộc xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), thuộc một trung tâm Phật giáo cổ, từ ngàn năm xưa vốn nổi danh với cái tên Luy Lâu, về sau trở thành đình tổ của thiền phái Ti Ni Đa Lun Chi.
Một điều cần chú ý là không khí thời đại đã tác động mạnh mẽ tới đời sống tâm linh của Nguyễn Gia Thiều. Bản thân ông sinh ra và lớn lên vào giai đoạn tàn suy của cuộc hôn phối chính trị vua Lê – chúa Trịnh, ngay sau đó là Lê – Tây Sơn và cuối cùng là sự khẳng định vương triều Tây Sơn – Nguyễn Huệ. Rõ ràng trong hoàn cảnh xã hội tao loạn, trăn trở tìm đường thì mọi nguồn sáng tư tưởng đều có thể được vận dụng, hoặc để cỏng kích nhau, hoặc để tổng hợp, chuyên hoá tới một hình thức cao hơn, hoặc dung hoà mong tìm đến sự an bài về mặt tư tưởng,… Sống trong giai đoạn các tư trào tư tưởng có biểu hiện tìm đường “đua tiếng”, nhà nghệ sĩ ưu thời mẫn thế Nguyễn Gia Thiều không thể không lựa chọn một lời hoà giải đời sống tâm linh theo cung cách của mình.
Trong sự va động nhiều chiều, một nguồn tư tường cốt lõi đã hấp dẫn, tạo được sự đồng cảm sâu sắc nơi ông chính là Phật giáo. Xem xét toàn bộ tác phẩm Cung oán ngâm khúc sẽ thấy cảm quan Phật giáo bộc lộ trước hết ở tần số xuất hiện đậm đặc các từ ngữ, thuật ngữ phản ánh quan niệm đời sống nhà Phật như nước dương, ỉứư duyên, bể khổ, bến mê, bào ảnh, môi thất tình, tuồng ảo hoá, kiếp phủ sinh, cơ thiền, cửa Phật, hoa đùm đuốc tuệ, túc trái, tiền nhân hậu quả,… Ở đây, trong giới hạn cụ thể của đoạn trích lại thấy Nguyễn Gia Thiểu thể hiện sâu sắc tâm trạng người cung nữ đang cô đon, thất vọng, chán chường đến tận cùng.
Tâm trạng sầu oán đi từ cảm giác đơn độc trước thời gian tàn tạ, mênh mang “thức ngủ thu phong”, “chiều ủ dột”, “chiều nhạt vẻ thu”, “giá đông”, trống trải trước không gian “Trong cung quế âm thầm chiếc bóng”, “Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng”, “Thâm khuê vắng ngắt như tờ”, “tin mong nhạn vắng”, “tiếng lắng chuông rền”, không còn tìm thấy đâu niềm vui trong cuộc sống đời thường “tranh biếng ngắm”, “mắt buồn trông”, “buồn mọi nỗi”, “ngán trăm chiều” và dẫn đến nỗi niếm thương thân, trách giận số phận, trách giận thực tại : “Hoa này bướm nỡ thờ ơ… Đang tay muốn dứt tơ hồng – Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”,…Bên cạnh sự nhạy cảm với biểu tượng mùa thu thì bóng đêm cũng đã trở thành nỗi ám ảnh nặng nề, thê lương, ảm đạm trong tâm tư người cung nữ:
Đêm năm canh, tiếng lắng chuông rền
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa !
Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau.
Rõ ràng thời gian ở đây tự thân đã bao hàm nỗi cô đơn, trống vắng, thời gian chìm trong giấc ngủ cô đơn (hay giấc ngủ cô đơn chìm trong dòng thời gian lạnh lùng vô vọng), thời gian kết tụ không hề có hoạt động của con người mà chi là khung cảnh một bức tranh tĩnh vật “Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thảm u”. Đặc điểm đó tạo nên tính đối lập sâu sắc giữa thòi gian hiện tại và thời gian quá khứ, giữa hiện thực hôm nay và mơ tưởng về một thời xa xôi tạo nên những nghịch lí khi thấy thời gian qua nhanh – thời gian “vô cảm”, khi khác lại thấy thời gian trôi quá chậm – thời gian “chết mòn”. Toàn bộ những trạng thái cảm xúc về thời gian đó vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau bởi chúng là sản phẩm của cùng một hoàn cảnh, khác chăng là ở sự phân hoá các trạng thái tâm lí, tình cảm. Đến một mức độ nhất định, nội dung trữ tình đó đã thông qua sự cảm nhận về thời gian mà lên tiếng kết án kẻ đã dổn con người vào tình thế cô đơn, bế tắc, mất hết mọi nguồn vui:
Cái buồn này ai dề giết nhau.
Giết nhau bằng cúi u sầu, độc chưa!
Trên phương diện nghệ thuật, cách thức cảm nhận và biểu hiện thời gian tâm trạng đặc biệt có ý nghĩa trong việc mô tả nỗi lòng người cung nữ và những nhận thức về xã hội, nhân sinh. Toàn bộ những khối mâu thuần đó đã được chuyển đổi thành nghịch lí trong sự biểu hiện thời gian tâm trạng, thời gian nghệ thuật: con người luôn mơ tưởng về quá khứ chứ không phải về tương lai; hi vọng vê tương lai chỉ là vònq khép trở về với quá khứ, mong được như thời quá khứ. Trên tất cả là sự hiện hình tâm trạng con người cá nhân chỉ còn biết cô đơn sống với “chiếc bóng”, “một mình”, “hoa này”, “cái buồn này”, “Xe thế này có dở dang không ?”, một cá nhân tự ý thức về “con người thừa”, sự vô vọng, đánh mất bản ngã và nỗi buồn hàm chứa những nuối tiếc, bực dọc, day dứt, bất bình:
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lụi rầu với hoa.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để qầỵ bông thắm, để xơ nhị vùng.
Có thể nói thêm rằng, thấp thoáng đằng sau tiếng nói bi kịch của người cung nữ là ý thức phản kháng, tố cáo chế độ cung nữ, mơ hồ nghĩ về quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc và ước vọng một cuộc đổi thay:
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
Xét trên phương diện ngôn từ nghệ thuật, đoạn thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt và điển tích khiến từng câu thơ trở nên hàm súc, uyên bác, trang trọng. Tác giả khai thác lối thơ song thất lục bát uyển chuyển, sinh động, tạo nên nhịp điệu gợi cảm, bâng khuâng man mác. Từng đôi câu thơ thất ngôn (bảy chữ) tạo nên thế đăng đối kết hợp với thể thơ lục bát truyền thống thường kết thúc ở câu thứ tám với những thanh bằng ngân vang, bâng khuâng, day dứt. Mặt khác, với đoạn thơ chỉ có 36 câu nhưng số lượng những tính từ thể hiện sắc thái tình cảm xuất hiện đậm đặc: Âm thầm, lạnh ngắt, ủ dột, bâng khuâng, vẩn vơ, vắng ngắt, chiêu nhạt, lạnh lùng, tịch mịch, thâm u, khắc khoải, ngẩn ngơ, thờ ơ,… Tất cả nhũng điều đó làm nên hình thức nghệ thuật mang âm hưởng buồn thương, phản ánh sâu sắc nỗi sầu oán của người cung nữ trước cuộc đời và sự ý thức về thân phận con người cá nhân, qua đó là khát vọng đòi quyền sống và sự khẳng định những giá trị nhân văn cao cả.
Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều không chỉ là tác phẩm tiêu biểu bậc nhất cho thể loại ngâm khúc mà đồng thời cũng là tác phẩm xuất sắc trong nền văn học dân tộc giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, có vị trí quan trọng trong chương trình giảng dạy từ bậc phổ thông tới ngành Văn các trường cao đẳng và đại học. Viết Cunq oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều không chỉ viết riêng về cuộc đời bất hạnh của người cung nữ mà thông qua đó bộc lộ những phẫn uất, bất bình của mình trước xã hội đương thời. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều lớn lao bởi chính tác giả đã cảm nhận được nỗi đau của thời đại, gián tiếp phát hiện và khẳng định quyền được sống, được hưởng mọi hạnh phúc của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Có thể nói, ý nghĩa thanh lọc, ý nghĩa nhân bản của thi phẩm Cung oán ngâm khúc cũng ở chính sự hiện diện con người nhà thơ như một nhân cách lịch sử, một tâm trạng bi kịch, trở thành biểu tượng cho những giá trị nhân đạo, những nỗi khắc khoải của xã hội đang đòi hỏi cần được đổi thay, phát triển.
Cho đến nay, mặc dù cách thức quan niệm của con người hiện đại về cuộc sống đã đổi khác nhiều, nhưng tư tưởng nhân văn và nghệ thuật viết văn bậc thầy của Nguyễn Gia Thiều còn là bức thông điệp giàu tính khái quát triết lí, một giá trị tinh thần nhân bản còn truyền mãi tới mai sau.
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 4Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 7
Thời phong kiến có tục tuyển cung nữ cho vua chúa trong cung. Tục lệ này được kéo dài hàng trăm năm trong chế độ phong kiến của nước ta thật sự là một tội ác với người phụ nữ trong xã hội cũ, bởi số phận của họ khi sinh ra chỉ là một người mua vui cho những vua chúa.
Nếu may mắn được vua để ý sủng hạnh thì được người khác hầu hạ nếu không thì họ sẽ phải chịu cảnh ghẻ lạnh sống trong cung vua cho tới khi già thì đưa về quê để chờ chết. Số phận bất hạnh của những người con gái đó đã làm động lòng nhiều tác giả có cái nhìn nhân văn, nhân đạo với những số phận con người bị cuộc đời ghẻ lạnh như tác giả Nguyễn Gia Thiều. Tác phẩm “Cung oán ngâm” của tác giả Nguyễn Gia Thiều chính là để tố cáo tội ác của những vua chúa thời Lê, Trịnh, một xã hội tàn nhẫn chà đạp lên số phận của những người phụ nữ khốn khổ, để họ phải chôn vùi tuổi xuân của mình trong bốn bức tường cung cấm lạnh lẽo, hết ngày này tới ngày khác.
Trong đó trích đoạn “Nỗi sau oán của người cung nữ” chính là đoạn trích nói lên sự ai oán, nghẹn ngào uất hận của người cung nữ tài sắc nhưng chẳng được hưởng hạnh phúc bao lâu đã bị cuộc đời, bị nhà vua bỏ rơi giữa cung vua lạnh lẽo trong khi tuổi xuân vẫn đang phơi phới. Tâm trạng buồn chán, xót xa cho số phận của mình và oán than cho cuộc đời nhiều phụ bạc, nhiều cay đắng được tác giả thể hiện qua những câu thơ nhiều cay đắng. Qua tác phẩm tác giả phản ánh tâm buồn tủi, người con gái sống trong những ngày tháng chờ đợi mòn mỏi, càng chờ càng cảm thấy tuyệt vọng bế tắc trong cuộc sống. Nàng sống cô đơn, u ám quanh bốn bức tường lạnh tựa băng tuyết, tuyệt vọng cho số phận mình hẩm hiu, tuyệt vọng cho thói đời bạc bẽo.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
“Khoảnh” có nghĩa chỉ sự chơi ác, thể hiện sự trớ trêu của số phận khi nỗi cô đơn dày vò người thiếu nữ. Người con gái nhớ lại những ngày tháng còn được nhà vua sủng hạnh, còn giờ đây nàng như bông hoa đã bị hút hết hương thơm bị bỏ lại một mình cho thân tàn, nhụy héo. Nơi nàng sống là một lầu son có nhiều tiện nghi nhưng lại thiếu hơi người, tất cả đều nhìn quanh một mình nàng khiến cho nỗi sầu trong lòng nàng càng thêm xót xa, ai oán.
Trong những câu thơ tiếp theo tác giả Nguyễn Gia Thiều đã nói lên sự thất vọng, bất lực của người con gái, những lời than thở một mình như đứt từng khúc ruột, nỗi buồn bủa vây không gian hiu quanh thể hiện sự tàn úa trong tâm trạng người con gái bị vua thất sủng.
“Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Lầu Tần, chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
”Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” trong tâm trạng chán chường cực độ người con gái nhìn đâu cũng thấy hình bóng mình cô liêu một mình nên tâm trạng càng thêm u uất, mệt mỏi. Cô gái nhìn xung quanh quạnh quẽ gối chăn đóng băng giá lạnh thiếu hơi ấm của người đàn ông đầu ấp má kề. Nàng cảm thấy sự bạc bẽo của con người thật đáng khinh bỉ, mới hôm qua còn thề non hẹn biển còn đầu ấp má kề, nhưng hôm nay người ta đã vui vẻ với người mới bỏ lại nàng một mình cô đơn một bóng, vò võ sống kiếp lạnh lùng hết ngày này qua tháng khác. Cuộc chiến chốn hậu cung là một cuộc chiến vô cùng tàn nhẫn và khốc liệt “Chém cha cái kiếp chồng chung. Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Tình yêu khi phải chung chạ, thì nó thật sự là một tấm chăn hẹp nếu người này kéo thì người kia sẽ bị lạnh. Không thể cùng hạnh phúc cho tất cả mọi người được.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
mà đay nghiến, uất ức, hằn học:
Giết nhau chẳng cái Lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Trong sự cay đắng tủi hờn người con gái đã buông lời oán trách, chì chiết kẻ đàn ông bạc tình kia rằng giết nhau bằng cái u sầu. Một cái giết không gươm đao, không thuốc độc nhưng lại khiến con người ta buồn mà chết, chết tàn chết héo trong chốn lạnh lẽo u uất này. Đó chính là tội ác của chế độ phong kiến khi chỉ phục vụ vua chúa mà cướp đi hạnh phúc của rất nhiều cô gái trẻ. Những câu thơ cũng tố cáo tội ác ăn chơi sa đọa của những vua chúa thời xưa, chỉ biết hưởng thụ vinh hoa phú quý, nhục dục xác thịt mà không biết rằng những người dân khốn khổ nghèo đói, biết bao người phụ nữ, lầm than, héo hắt hoa tàn nhị héo trong cung cấm.
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ!
Dang tay muốn dứt tơ hồng,
Trong khổ thơ này thể hiện những trái ngược trong cảm xúc. Một là cảm xúc nặng nề chán nản cuộc sống bị ghẻ lạnh, bị lãng quên của người con gái nơi hậu cung lạnh lẽo. Hai là cảm xúc khát khao muốn có hạnh phúc đời thường của người con gái đang tuổi xuân sắc. “Nguyệt lão” chính là người làm mai mối trong nhân gian với những đôi uyên ương đã xe duyên cho người con gái nhưng lại khiến nàng dở dang một đời. Nàng oán hận số phận oán hận người xe duyên, oán hận kẻ bạc tình, đã quất ngựa truy phong vui bên duyên mới quên nàng nơi đây lạnh lẽo.
Hình ảnh muốn dứt tơ hồng thể hiện sự vùng vẫy của người con gái muốn chấm dứt cuộc sống bi ai, uất hận này nhưng chế độ xã hội quyền lực của xã hội phong kiến không cho nàng được làm thế. Nàng mãi mãi bị kìm kẹt cho tới chết ở chốn cung vua này. Tác giả Nguyễn Gia Thiều bằng ngòi bút tinh tế, sâu sắc của mình đã lột tả được bộ mặt thật của xã hội phong kiến, tố cáo tội ác của vua chúa ngày xưa ăn chơi xa đọa, khiến nhiều người phụ nữ chịu cảnh ghẻ lạnh, bạc bẽo nơi hậu cung.
Bài thơ này còn tố cáo kiếp đa thê của xã hội phong kiến, khiến nhiều người phụ nữ xưa phải chia sẻ chồng mình với người khác. Đoạn trích cũng thể hiện giá trị nhân văn cao cả của tác giả dành cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ.
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 2Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 4
Tự bào giờ đến bây giờ, thơ ca vẫn luôn có sức đồng cảm mãnh liệt, là niềm an ủi cho con người trong mọi hoàn cảnh. Từ ca dao – dân ca của dân gian tiếng lòng của người bình dân như lúa lâu ngày chịu hạn nay gặp mưa rào, văn học trung đại phát triển phong phú và toàn diện để đáp ứng nhu cầu giãi bày của con người. Trong đó có sự xuất hiện của thể loại ngâm với thơ song thất lục bát. Một trong những khúc ngâm được biết đến nhiều nhất chính là “Cung oán ngâm” của Ngyễn Gia Thiều. Đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” là một trong những trích đoạn tiêu biểu.
Tác phẩm “Cung oán ngâm” ra đời vào cuối thế kỉ XIX, khi xã hội Việt Nam đang đi vào suy thoái với lối sống hưởng thụ, ăn chơi xa đọa của vua chúa và sự lầm than của sinh linh trong nhân gian. Những số phận bất hạnh không chỉ có người nông dân mà còn có những cung nữ. Chế độ cung nữ là sản phẩm tội ác của vua chúa hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến. Vua chúa tự đặt ra quyền tuyển hàng trăm, hàng ngàn thiếu nữ vào cung. Tuổi xuân của người con gái, hạnh phúc của cả một đời người khi vào cung bỗng hóa phù du, mong manh, khó nắm bắt. Cất lên từ thể thơ song thất lục bát, Nguyễn Gia Thiều đã nói hộ nỗi niềm của bao người phụ nữ bất hạnh ấy.
Đầu tiên là những câu thơ về tình cảnh lẻ loi, buồn tủi của người cung nữ được vẽ đối lập với cuộc sống xa hoa, tráng lệ nơi cung cấm.
“Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân,
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.”
Không gian sống của họ là “cung quế” cách biệt với thế giới bên ngoài, thời gian: đêm khuya. Đây là khoảng thời gian để nhân vật xuất hiện, nhắc người cung nữ nhớ về những gì đã có, cả những ám ảnh về niềm hi vọng, đợi chờ rồi sự thất vọng trong tình cảnh đơn chiếc. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với “âm thầm chiếc bóng”- cô đơn lặng lẽ, với “trông ngóng lần lần” chờ đợi một cái gì xa xôi, biết là xa vời nhưng vẫn không thôi ngóng đợi. Câu thơ đã cụ thể hóa sự ngóng đợi hết đêm này đến đêm khác, không dứt. Để rồi, một lúc nàng cũng phải cất lời oán trách “Khoảnh làm chi bấy chúa xuân”. Lời thơ đọc lên có âm điệu đay nghiến, hơn hết là xót xa của nhân vật trữ tình trong tình cảnh thê thảm của mình. Cuộc sống của họ được tận hưởng những vật chất sang trọng, sa hoa: “đãi nguyệt, gác thừa lương, gương loan,…”. Đặt các từ Hán Việt sang trọng trên với những từ nôm na: “đứng ngồi, thức ngủ, bẻ nửa, xé đôi” như làm nổi bật sự đối lập giữa cuộc sống lộng lẫy, đủ đầy với sự lạnh lẽo, tồi tàn, buốt giá trong tâm hồn con người. Người cung nữ vò võ một mình chỉ biết làm bạn với gió trăng.
Và những dòng sau là tâm trạng của người chinh phụ. Nỗi niềm hiện lên trực tiếp qua những từ “ủ dột, bâng khuâng, buồn bã, ủ ê” và gián tiếp qua những điển cố “hồn bướm, giấc mai”. Đó là trạng thái vơ vẩn, ngẩn ngơ, mơ màng vì những tàn phá của nỗi đau tinh thần. Đặc biệt là phép tiểu đối: “ngấn phượng liễu”- ‘dấu dương xa” gợi về quá khứ đầm ấm, hạnh phúc mà người cung nữ từng được yêu chiều, sủng ái- nay chỉ còn trong mộng tưởng, vừa nhớ mà vừa đau; “Chòm rêu lỗ chỗ – đám cỏ quanh co”: Dấu hiệu của hạnh phúc đã bị rêu phong phủ lối- thực tại phũ phàng mà người cung nữ đã bị bỏ quên. Hình ảnh ước lệ xen với tượng trưng: “gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông”: gối hạnh phúc có cảnh tuyết đóng, chăn đắp cho ấm mà vẫn giá băng. Bởi cái lạnh dấy lên từ tận đáy lòng, cô đơn dù chăn ấm nệm êm thì vẫn không thể hạnh phúc. Tâm trạng con người diễn biến theo chiều bi kịch, càng lúc càng nặng nề. Giọng văn réo rắt phù hợp với nỗi oán hờn.
Dòng tâm trạng của người cung nữ tiếp tục trong nỗi buồn tủi, nỗi oán trông chờ đợi. Cũng là lời than oán nhưng khác với người chinh phụ, giọng của người cung nữ mới thật gay gắt và quyết liệt. Mỗi khổ thơ diễn tả những nỗi buồn tủi khác nhau:
“Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.”
“Ngày sáu khắc, đêm năm canh” như muốn nhấn mạnh lại mực độ chờ đợi, khắc khoải. Mong tin nhắn mà vắng, ngóng tiếng xa mà chỉ có tiếng chuông chùa – nghịch cảnh nhức nhối tâm can, khắc sâu thêm nỗi cô đơn, rợn ngợp. Đèn đốt lên cho sáng mà lại càng cô đơn, hương thắp lên cho ấm mà càng âm u. Cái u ám, lạnh lẽo trong lòng lan ra cả cảnh vật. Rồi những từ ngữ tiếp: “biếng, tủi, sầu,…” biểu hiện tâm trạng chán chường, buồn tủi, nhấn mạnh thực tế phũ phàng: trăng trong, tranh đẹp – tất cả đều vô nghĩa trong chờ đợi vô vọng. Buồn, khắc khoải, ngẩn ngơ là hành trình phát triển của tâm trạng theo chiều tiêu cực, băn khoăn, thao thức đến mất hết ý chí, tinh thần. Bên cạnh lời than trách còn có nỗi lo âu: “Hoa này bướm nỡ thờ ơ/Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng”- lo một ngày nhan sắc tàn phai, hi vọng trở lại với hạnh phúc không còn nữa. Ba khổ thơ khắc họa đầy tinh tế sự thất vọng nặng nề, cô đơn sầu tủi và sầu oán gay gắt trong cảnh chờ đợi. Nỗi oán giận từ tâm trí phát ra phản ứng quyết liệt:
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa !
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không ?
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !”
Thời gian nghệ thuật lặp lại: “Đêm năm canh…” cảm giác giằng giặc không thể kết thúc. Điệp ngữ “giết nhau” gây ấn tượng mạnh về sự tàn bạo, độc ác. Người ta giết nhau bằng dao kiếm tưởng như đã là tận cùng của nỗi đau nhưng vẫn chỉ là thuần túy về thể xác. Giết nhau bằng nỗi u sầu, tự đày đọa trong cảnh chăn đơn gối chiếc khiến người ta chết dần chết mòn – đó mới là sự tàn phá kinh hoàng, là nỗi đau không thể hàn gắn. Câu thơ như lời trách móc nhẹ nhàng mà hằn học, khiến lời thơ đọc lên mà nhức nhối tâm can. “Độc chưa” là lời than hay là câu hỏi? Câu hỏi tu từ “Xe thế này có dở dang không?” như lời trách, bực mình, phẫn nộ – tâm lí của người bị đẩy vào đường cùng ngõ hẹp.
Như vậy, nếu người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” lẻ loi vì nhớ chồng, có nỗi thất vọng nhưng chưa bị đẩy đến bi thảm bởi vẫn nuôi niềm hi vọng chồng trở về, vẫn tin tưởng vào hạnh phúc lứa đôi thì ở đây, người cung nữ bị vua ruồng bỏ, ngày đêm đứng tủi ngồi sầu, muốn bứt phá mà không thể được còn đáng thương hơn nhiều. Người cung nữ từ mất niềm tin đến sầu oán mạnh mẽ, quyết liệt. Nếu người chinh phụ còn mơ hồ về kẻ thì gây bất hạnh cho gia đình mình thì người cung nữ đã ý thức rất rõ về người đó, nhưng vẫn không thể làm gì được. Qua đó, có thể thấy sự đồng cảm, bênh vực của Nguyễn Gia Thiều với khát vọng tự do vừa đáng thương, vừa đáng trân trọng; từ đó gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến vô nhân đạo đã tước đi quyền được sống, được hạnh phúc của con người. Cái tâm của người nghệ sĩ đi liền với cái tài: tài năng tả tâm trạng nhân vật bậc thầy. Mỗi khổ thơ là một tâm trạng, mỗi tâm trạng là một từ ngữ biểu cảm, so sánh, ước lệ khác nhau. Những câu thơ mà “thiên bách, bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân”.
Những câu thơ có giá trị là những câu thơ sống mãi trong lòng người dù dòng thơ đã kết thúc, là để lại cho người đọc những ám ảnh, những day dứt khôn nguôi. “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều đã làm được điều đó.
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 2
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 10Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 2
Trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII nửa đầu thế kĩ XIX, nhân vật phụ nữ có một vị trí đặc biệt, với nhiều vấn đề về tình cảnh và số phận của họ. Đã có một người chinh phụ với tình cảnh lẻ loi và niềm khao khát hanh phúc trong Chinh phụ ngâm, một Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du với số phận bi kịch suốt 15 năm lưu lạc, rồi còn nhiều nữa những Ngọc Hoa, Cúc Hoa trong truyện Nôm… Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều góp thêm một tiếng nói manh mẽ tố cáo chế độ phong kiến đày ải, giam hãm những người phụ nữ mỏi mòn trong thân phận cung nữ.
Chế độ cung nữ của các vua chúa phong kiến là một hiện tượng hết sức độc ác, vô lí đã tồn tại hàng ngàn năm dưới các triều đại phong kiến. Hiện tượng ấy cũng đã trở thành đề tài của nhiều tác phẩm văn chương trong thời trung đại, nhưng phải đến Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều thì tình cảnh bị bỏ rơi, giam hãm của những cung nữ và niềm oán hận của họ mới được thể hiện một cách hết sức mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa chua xót. Đoạn thơ trích Nỗi sầu oán của người cung nữ (từ câu 209 đến câu 244 Cung oán ngâm) thể hiện tập trung tình cảnh cô quạnh, bị bỏ rơi và niềm bi phẫn của người cung nữ.
Đoạn thơ mở ra bằng hình ảnh người cung nữ một mình lẻ loi, cô đơn giữa cảnh lộng lẫy vàng son nơi cung cấm. Giữa không gian của những cung quế, lầu đãi nguyệt, gác thừa lương đầy vẻ xa hoa, tráng lệ lại chỉ thấy bóng dáng lẻ loi, âm thầm buồn bã của người cung nữ.
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong
Nếu những danh từ Hán – Việt ở đầu các câu thơ trên gợi ra vẻ sang trọng, đài các ở nơi cung cấm, thì động từ – thường là từ thuần Việt, nôm na, lại vẽ ra bóng dáng lẻ loi và tâm trạng khắc khoải, mòn mỏi trong sự đợi chờ vô vọng của người cung nữ. Những cặp động từ “trông ngóng, đứng ngồi, thức ngủ” đã diễn tả không chỉ những hành động lặp đi lặp lại mà còn biểu hiện tính tê tâm trạng khắc khoải, bồn chồn của người cung nữ.
Ở những câu thơ tiếp theo, không gian thu hẹp lại trong căn phòng nơi cung cấm. Không gian ấy vẫn còn vẻ xa hoa với những phòng tiêu, gương loan, cửa châu, rèm ngà, nhưng vẫn không che lấp được sự trống trải, cô quạnh của người cung nữ. Tất cả vẫn chỉ là sự lạnh lẽo: “Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng”, “Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo”. “Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá, đông”. Không gian đã vậy, còn thời gian của sự đợi chờ vô vọng lại càng dằng dặc, lê thê:
Ngày sáu khắc, tin mong nhạn vắng
Trong những đêm dài lạnh lẽo với những giấc cô miên chập chờn, người cung nữ cố gượng đốt hương để mong có hơi ấm và mùi hương thơm xua bớt đi sự lạnh lẽo, nhưng mùi hương chỉ làm tăng thêm sự tịch mịch (mùi hương tịch mịch)-, thắp ngọn đèn lên thì chỉ làm rõ không gian thâm u của căn phòng (bóng đèn thâm u). Trở lên trên là doạn thơ 20 câu vẽ ra hình ảnh cô quạnh của người cung nữ trong không gian tráng lệ nhưng cô tịch, lạnh lẽo nơi cung cấm. 16 câu thơ tiếp theo của đoạn trích đi sâu hơn diễn tả tâm trạng của người cung nữ đối với nỗi sầu tủi, oán hận ngày càng thấm thìa, gay gắt.
Mọi tư thế, động tác của nhân vật trữ tình người cung nữ điều thể hiện sự buồn chán, trễ nải: Tranh biếng ngắm, mặt buồn trông, đứng tủi, ngồi sầu. Muôn giải bày lòng mình cũng chỉ biết “đã than với nguyệt lại rầu với hoa”. Nỗi buồn rầu, chán ngán kéo dài hết ngày nọ sang ngày kia, tưởng đã đến cực điểm:
“Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải
Đến đây, từ nỗi sầu thương, tâm trạng người cung nữ chuyển sang nỗi oán hận. Mới đầu chỉ là lời oán trách về sự thờ ơ của vua, để nhan sắc của mình phôi pha, hoài phí với thời gian:
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng!
Ở đoạn trên, cung nữ đã một lần oán trách:
“Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi”.
Không dừng lại ở đó, sự oán trách đã thành oán hận, thành lời lên án gay gắt với nhà vua:
Trong những bài thơ về đề tài cung nữ cũng thường có những lời oán thán về việc họ bị bỏ rơi, chẳng được vua chúa đoái hoài. Nhiều trường hợp đó chỉ là cách nói ẩn dụ của một công thần bị thất sủng mượn người cung nữ để nói lên lời than trách với vị quân vương. Đến Cung oán ngâm, có lẽ đây là lần đầu tiên trong văn chương thời trung đại có một người lên án trực tiếp và gay gắt thứ tội ác này của vua chúa. Giam hãm bao nhiêu cung nữ trong hậu cung, để những người phụ nữ đẹp ấy phải chết dần chết mòn trong nỗi u sầu, cô độc. Đó chẳng phải là một tội ác sát nhân hay sao? Hơn nữa, cái cách giết người ở đây mới thật thâm hiểm và ác độc, không cần dùng đến gươm sắc, chỉ bằng “cái u sầu”, mà phải là những người trong cuộc – những nạn nhân của chế độ cung nữ như ở đây mới thật sự thấm thìa: “Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa”. Lời thơ đến câu này không còn giọng thở than sầu thảm như ở đoạn trên mà chuyển thành giọng oán hận gay gắt. Lên án sự ác độc của vua chúa, người cung nữ còn oán trách cả ông trời, mà cụ thể là việc xe duyên của Nguyệt Lão:
Tay Nguyệt Lão chẳng xe thì chớ!
Truy tìm nguồn cội của tấn bi kịch đời mình, người cung nữ chỉ biết oán trách sô’ phận trớ trêu trong tay tạo hóa, điều ấy cũng là lẽ thường trong quan niệm nhân sinh của thời xưa – con người khi không thể tự chủ cuộc đời mình và không thể cắt nghĩa nổi những nguyên cớ dẫn đến sô” phận của mình, thì thường chỉ biết oán trách. Người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm cũng từng cất lên lời oán trách trời xanh: “Xanh kia thăm thẳm tầng trên/ Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”. Lời của người chinh phụ vẫn trong chừng mực của một lời than thở, trách cứ nhẹ nhàng. Đến người cung nữ thì lời oán trách đã mạnh mẽ hơn nhiều. Còn trong Truyện Kiều, trước tình cảnh Thúy kiều mấy lần bị đẩy vào vòng ô nhục, đã cố giãy giụa mà vẫn không sao thoát được, thì Nguyễn Du phải thốt lên tiếng chửi đầy tức giận:
Chém cha cái số ba đào
Cởi ra rồi lại buộc vào như chơi
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.
Người cung nữ của Nguyễn Gia Thiều không dừng lại ở sự oán trách số phận của mình, mà sự giận dữ đã chuyển thành ý muôn hành động tung phá để thoát khỏi tình cảnh bị giam hãm mãi mãi trong cô đơn, u buồn ở chốn nội cung:
Đang tay muốn bứt tơ hồng
Cố nhiên, từ ý nghĩ đến hành động còn là một khoảng cách không phải dễ gì vượt được. Người cung nữ vẫn còn mong mỏi đến một ngày nào đó lại được đấng quân vương đoái hoài tới và nhờ thế mà chấm dứt được cảnh sông cô quạnh, u buồn của mình. Nhân vật cung nữ của Nguyễn Gia Thiều chứa đựng nhiều mâu thuẫn, phức tạp, phản ánh phần nào những mâu thuẫn trong tư tưởng của chính tác giả.
Đoạn Nỗi sầu oán của người cung nữ là đoạn thơ khá tiêu biểu cho giá trị tư tưởng và nghệ thuật của Cung oán ngâm. Đoạn thơ đã diễn tả sâu sắc và đầy sức ám ảnh về tình cảnh mỏi mòn, u sầu của người cung nữ, qua đó cho thấy bộ mặt tráo trở và sự độc ác của vua chúa. Không gian nơi nội cung, ngoài thì lộng lẫy, xa hoa, nhưng thực chất chỉ là một không gian tù hãm, thâm u, chỉ là nơi giam cầm những cung nữ trong kiếp đọa đày. Nỗi u sầu và sự oán hận của người cung nữ đã được biểu hiện với tất cả sự thấm thìa, mạnh mẽ, gay gắt và bằng sự cảm thông sâu sắc của tác giả. Đó chính là giá trị nhân đạo của đoạn thơ này cũng như của cả khúc ngâm. Với Cung oán ngâm, thêm một lần nữa trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII, những khát vọng tự nhiên chính đáng của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đã được nói lên một cách thành thực và mạnh mẽ.
Đoạn thơ cũng cho thấy thành công xuất sắc của Nguyễn Gia Thiều trong nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ và sử dụng thể thơ song thất lục bát. Lớp từ ngữ Hán – Việt và lớp từ Nôm thuần Việt đã được tác giả phối hợp một cách tài tình, đầy sáng tạo, vừa tạo nên vẻ sang trọng, đài các của nơi cung cấm, lại vừa biểu hiện được trực tiếp, gợi cảm những tâm trạng, cảm xúc đến độ gay gắt mạnh mẽ của nhân vật trữ tình người cung nữ. Nhiều động từ và tính từ, chủ yếu là thuần Việt được đặt ở trọng tâm các câu thơ, tạo ấn tượng rất mạnh mẽ đến sự tiếp nhận của người đọc:
Ghơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.
Thể thơ song thất lục bát đã xuất hiện từ hàng thế kỉ trước, nhưng đến Cung oán ngâm mới thật sự đạt đến sự hoàn chỉnh chặt chẽ trong cấu trúc của từng khổ thơ, trong cách gieo vần ở chữ thứ 5 của câu thất và đối về thanh điệu của cặp câu 7 chữ. Thể song thất lục bát qua Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm đã cho thấy nó rất thích hợp với những khúc ngâm bởi khả năng thể hiện những tâm trạng lớn, trải ra trong một thời gian dài mà mỗi khổ thơ là một con sóng, hết đợt sóng này đến đợt sóng khác tiếp nối để tạo nên một tác phẩm trữ tình trường niên.
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 1Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 10
Tập tuyển cung nữ là thực trạng tội ác của vua chúa phong kiến kéo dài hàng nghìn năm. Ngày xưa, các bậc vua chúa tự đặt ra cho minh quyền được có: Ba trăm mĩ nữ, sáu mươi cung tần. Hàng trăm thiếu nữ trẻ đẹp được tuyển vào cung. Người trúng tuyển phải ở “tiêu phòng” cho đến già, đoạn tuyệt với gia đình, làng xóm, không được liên lạc với mọi sinh hoạt của xã hội bôn ngoài, số phận bất hạnh của những người cung nữ đã làm động lòng nhiều nhà văn, nhà thơ nhất là dưới thời vua Lê, chúa Trịnh. Có một số tác phẩm viết về họ nhưng không tác phẩm nào có được tiếng nói tố cáo sâu sắc như Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiểu.
Cung oán ngâm là khúc ca ai oán, uất hận của người cung nữ tài sắc lúc đầu được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu đã bị bỏ rơi giữa tuổi thanh xuân. Nỗi hờn tủi cứ theo ngày tháng mà dâng lên tràn ngập tâm hồn, giày vò, day dứt nàng khôn nguôi, ở trong cung cấm, nàng xót thương cho thân phận minh và oán trách nhà vua phụ bạc. Qua khúc ngâm, tác giả phản ánh tâm trạng đau khổ của người cung nữ phải sống trong cảnh đợi chờ đến tuyệt vọng; đồng thời thể hiện quan niệm của mình trước cuộc đời bạc bẽo. phù du.
Đoạn trích gồm 36 câu (từ câu 209 đến câu 244), diễn tả tâm trạng đau khổ của người cung nữ bị thất sủng. Nàng sống cô đơn giữa bốn bức tưởng lạnh giá, xót xa cho tuổi xuân trôi qua hoài phí và uất ức than thở về những bất công dành cho thân phận minh.
Có thể chia đoạn trích làm hai đoạn nhỏ:
Đoạn 1: Bón khổ thơ đẩu: cảnh cung cấm xa hoa tráng lệ và cuộc sống lẻ loi, buồn tủi của người cung nữ bị thất sủng.
Đoạn 2: Năm khổ thơ tiếp theo: Cảnh sống đày đọa kéo dài với nỗi thất vọng nặng nề mà người cung nữ phải gánh chịu.
Mở đầu đoạn trích, hình ảnh cô đơn của người cung nữ hiện lên rất rõ nót: Trong cung quế ảm thầm chiếc bóng Đêm năm canh trồng ngóng lần lần. Sự đối lập giữa khung cảnh xa hoa, tráng lệ với cuộc sống tối tăm u uất nơi cung cấm làm nổi bật bóng dáng nhỏ bé đến tội nghiệp. Nhà thơ đã chọn thời gian ban đêm để nhân vật trữ tinh dễ dàng bộc lộ tâm sự của mình. Bị nhà vua bỏ rơi trong toà nhà lộng lẫy, mênh mông, người cung nữ suốt năm canh đứng tủi ngồi sầu, khắc khoải trông ngóng lần lần và chờ mong vô vọng. Trong tình cảnh ấy, nàng ý thức sâu sắc về thân phận éo le và nhận biết rất rõ kẻ đã gây ra nỗi bất hạnh cho đời minh. Nàng bị giết chết không phải bằng gươm sắc mà bằng cuộc sống giam hãm, tù túng và tuyệt vọng trong cảnh chăn gối lẻ loi, lạnh lẽo. Qua lời thở than oán trách của người cung nữ, hình ảnh nhà vua hiện lên đúng là một kẻ bạc tình:
Khoảnh có nghĩa là chơi khăm, chơi ác. Nỗi cô đơn giày vỏ, giằng xé tâm hổn người cung khiến nàng phải cất lên lời oán trách gay gắt. Nàng nhở lại những ngày đầu được vua sủng ái; còn giờ đây, nàng như bị nhấn chim trong sự hờ hững, lãng quên. Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả khung cảnh xa hoa tráng lệ nơi cung cấm, đối lập với nỗi cô đơn đáng sợ của người cung nữ:
Lầu đãi nguyệt / đứng ngồi dạ vũ,
Gác tựa lương / thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu / lạnh ngắt như đồng,
Gương loan / bẻ nửa, dải đổng / xẻ đôi.
Nơi nàng sống thật đẹp đẽ và đáy đủ tiện nghi, nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa, trớ trêu, chỉ gợi thêm nỗi sầu, nỗi thảm trong lòng nàng mà thôi. Tiếp theo những câu thơ miêu tả nỗi thất vọng nặng nề của người cung nữ là lời thở than, là tiếng kêu đứt ruột. Dù buồn bã hay oán trách, không một cảm xúc nào của nàng ở mức độ bình thường mà tất cả đều gay gắt, mãnh liệt:
Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bâng khuâng hổn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt nhu tờ,
Của châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ.
Lầu Tẩn, chiều nhạt vẻ thu,
Năm khổ thơ tiếp theo miêu tả cuộc đày ải kéo dài với những thất vọng nặng nề trong cảnh ngày ngóng đêm trông, đau đáu chờ đợi nhà vua của người cung nữ. Nỗi sầu có lúc lên đến điểm đỉnh, biến thành tâm trạng u uất, bức bối tưởng như nghẹt thở:
Giấc ngủ cô đơn lạnh lùng đáng thương biết mấy! Nón hương đốt lên để cho không khí trong tiêu phòng ấm áp, thơm tho nhưng chỉ đem lại cho người cung nữ cảm giác vắng lặng, tịch mịch. Bóng đèn thắp lên cót để ánh sáng xua bớt bóng đêm nhưng chỉ gây cho nàng cảm giác thâm u, tăm tối. Cảm giác tịch mịch, thâm u không phải dược tạo ra bởi mùi hương hay bóng đồn mà chính là từ nỗi buồn chán, tuyệt vọng của người cung nữ. Đêm nào nàng cũng chỉ sổng với cái bóng của minh:
Tranh biếng ngắm trong đó tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiễm lâu.
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa!
Đoạn thơ cứ nhắc đi nhắc lại cái bóng dáng cô độc, lủi thủi đáng thương của người cung nữ. Nỗi đau đớn, khắc khoải khiến nàng mệt mỏi, rã rời cả thể xác lẫn tâm hổn. Trong nỗi buồn dai dẳng ấy chứa đựng sự hờn trách, tức tói và uất hận:
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải, Ngán trâm chiểu, bước lại ngẩn ngơ. Hoa này bướm nỡ thờ 0, Để gầy bông thắm, đổ xơ nhụy vàng.
Lời oán trách không nhẹ nhàng như của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm: Trên trướng gấm thấu hay chẳng nhẽ mà đay nghiến và hằn học:
Cay đắng trước sự thật phũ phàng, người cung nữ đã phải buông lời chỉ chiết: Giết nhau bàng cái u sầu, độc chưa. Câu thơ vừa như một tiếng nghiến răng căm giận, vừa là lời tố cáo đanh thép sự tàn ác của chế độ da thê, chế độ cung tần mĩ nữ tàn bạo thời phong kiến bởi nó đã cướp đi quyền sống tự do, cướp đi hạnh phúc của bao nhiêu cô gái trẻ dẹp. Chúng không giết những người cung nữ bằng dao, bằng kiếm mà bằng cách để cho nỗi cô đơn huỷ hoại tâm hồn và cuộc sống của họ. Người xưa dùng thành ngữ Ễ’ giết người không dao (lể chỉ những hành động giết người tinh vi nhất, tàn bạo nhất. Chính những thú ăn chơi trác táng cùng thói vô tinh đến tàn nhẫn của vua chúa phong kiến đã đẩy hàng ngàn người cung nữ tội nghiệp vào bi kịch “dở sống, dở chết” đó. Người phụ nữ trong xã hội xưa thường ít khi trực tiếp thể hiện lòng minh, nhưng nỗi đau xót và sự tủi hờn cao độ đã khiến người cung nữ phải thốt ra tâm sự sâu kín nhất, kể cả ý muốn bứt phá để thoát khỏi cảnh sống giam hãm: Đọa đày. Đang tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống mà phải chờ đợi mỏi mòn trong tuyệt vọng nên người cung nữ uất ức cất lời than thở, oán trách. Từ lòng xót thương thực sự, tác giả đã đổng cảm và sẻ chia tâm sự đau đớn ấy. Sức sống dồi dào, khát khao hạnh phúc càng mãnh liệt bao nhiêu thì nỗi giận hờn và uất hận càng ngút cao bấy nhiêu trong lòng người cung nữ:
Dang tay muốn dứt tơ hổng,
Chất trữ tinh trong đoạn trích được tạo nên từ hai cảm xúc trái ngược nhau. Một là cảm xúc buồn chán nặng nể do bị giam hãm lâu ngày trong cảnh tù túng; hai là cảm xúc khao khát hạnh phúc đời thường không nguôi thôi thúc, ám ảnh. Nỗi chán nản đến mức tuyệt vọng và nỗi khao khát cháy bỏng cộng hưởng tạo thành những làn sóng trữ tinh dào dạt. Người cung nữ dường như đang cố vẫy vùng dể thoát khỏi nỗi cô đơn, nhưng nàng càng cô’ gắng thì càng tuyệt vọng. Sợi dây oan nghiệt dã thắt chặt lấy thân phận của người cung nữ như một thứ định mệnh khó bể thoát khỏi.
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo, điêu luyện kết hợp với cách lựa chọn từ ngữ giàu khả năng gợi tả, gợi cảm, tác giả đã thể hiện thành công tâm trạng phức tạp của người cung nữ. Sự đồng cảm chân thành của nhà thơ đã tạo nên giọng điệu réo rắt, sầu khổ oán hờn của đoạn trích nói riêng và cả tác phẩm Cung oán ngâm nói chung. Nỗi sầu oán của người cung nữ đã cất lên tiếng nói tố cáo chế độ đa thê, chế độ cung tần mĩ nữ tàn bạo của các vua chúa thời phong kiến. Đổng thời, đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của tác giả, người đã thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với số phận oan nghiệt của những cô gái đầy khát vọng sống nhưng không may bị biến thành trò mua vui cho vua chúa và bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ bị vứt bỏ, bị lãng quên trong cung cấm thâm u. Đoạn trích là tiếng nói tha thiết đòi quyển sống, đòi quyển được hạnh phúc của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ngày xưa.
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 1
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 8Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 1
Nếu như nhắc đến Nguyễn Du người ta nhớ ngay đến Truyện kiều, nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta đọc chùm thơ thu thì nhắc đến Nguyễn Gia Thiều là nhắc tới Cung oán ngâm. Đây là một tác phẩm lớn và giàu giá trị nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều. Đặc biệt đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ là một đoạn trích tiêu biểu cho số phận bi thương của người cung nữ. Không chỉ thế, đoạn trích cũng gợi mở cho người đọc những giá trị hiện thực khác ngoài số phận người con gái.
Về tác giả Nguyễn Gia Thiều, ông sinh ra tại mảnh đất Kinh Bắc với nhiều làng nghề nổi tiếng và đậm đà khúc hát dân ca. Không những thế, ông còn xuất thân từ một gia đình quý tộc quyền quý. Từ ông nội, bà nội cho đến cha mẹ, vợ đều là những người xuất thân từ bậc cao quý. Nguyễn Gia Thiều là người học rộng tài cao, thông hiểu nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên ông sinh ra trong một thời đại đầy biến động, sau khi vua Quang Trung lên làm vua thì nhà thơ cũng trở về quê sống cuộc sống bình dị đến cuối đời.
Cung oán ngâm khúc là một tác phẩm lớn của Nguyễn Gia Thiều kể về nỗi bất hạnh, cô đơn của những người cung nữ bị nhà vua bỏ rơi. Tác phẩm được viết bằng thể thơ song thất lục bát, nghệ thuật miêu tả tâm trạng sinh động, tinh tế, ngôn ngữ tài hoa đài các. Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ từ câu 209 đến câu 244.
Ngoài việc phản ánh số phận đau đớn, tủi nhục của người cung nữ nơi cấm cung lầu nghiêm xa hoa đài các thì đoạn trích còn phán ảnh hiện thực xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Đó là hiện thực, nam nhi có thể nam thê bảy thiếp còn phận gái thì chỉ trọn vẹn một đời chồng. Bình thường nếu người chồng chẳng may không còn nữa thì người con gái đó cũng phải ở vậy thủ tiết suốt đời. Đó điều bất công cho số phận của người con gái. Phận nam nhi, vua chúa thì nay đến với người này mai đến với người nọ. Hết yêu, hết sủng ái thì người con gái đó trở thành “hoa rữa nhụy dần”:
“Khoảnh làm chi bấy chúa xuân,
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.”
Cung quế, lầu gác nguyệt kia giống như một cái nhà tù đẹp nhưng khó thoát cầm tù người con gái suốt cả cuộc đời. Đặc biệt thông qua đoạn trích ta cũng có thể hiểu ra một sự thật những cung nữ, phi tần không hề vui vẻ là mấy. Người vua chúa ngày đêm lo việc triều chính mà lại có tần ấy người đẹp bên cạnh thì làm sao có thể lo việc nước nhà. Không chỉ vậy, đoạn trích cũng thể hiện rõ cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của bọn vua chúa phong kiến:
“Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo”
Vua chúa thời xưa sống trong cảnh lầu đãi nguyệt, gác thừa lương, phòng tiêu và sử dụng toàn những đồ đạc quý giá như gương loan, dải đồng, cửa châu, rèm ngà, gối loan, chăn cù. Đó đều là những hình ảnh sự vật quý giá. Vậy đã có bao giờ chúng tự hỏi rằng cung quế, gác nguyệt kia ở đâu ra không, rồi cửa châu, rèm ngà ai đã làm ra. Chúng sống xa hoa tráng lệ bao nhiêu thì nhân dân càng khổ cực bấy nhiêu. Để làm nên một cung quế, một gác nguyêt như thế người dân không những mất tiền mất bạc với vua chúa phong kiến mà còn phải mất sức nữa.
Bên cạnh những phản ảnh hiện thực xã hội đương thời, Nguyễn Gia thiều còn muốn thể hiện quan niệm về cuộc đời bạc bẽo phù du. Con người đến với nhau bởi tình yêu bởi sự quý mến và sống với nhau bằng tình nghĩa thủy chung. Thế nhưng ở đây cuộc đời bạc bẽo phù du ấy khiến cho người cung nữ trở thành người có chồng mà cũng như không. Để rồi buồn, rồi đứng ngồi không yên, ra ngẩn vào ngơ:
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ.
Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng.”
Chức tước phi tần, cung nữa kia, nơi ở lầu son gác tía kia hay đũa vàng chén ngọc cũng những món cao lương mỹ vị trên đời kia chỉ là phù du mà thôi. Con người có một phần xã hội, tức là cần được giao tiếp, cần được yêu thương. Thế nhưng cuộc đời quá đỗi phù du bạc bẽo, tưởng chừng yêu lấy một người thì người đó sẽ yêu lại mình, thế nhưng vua chúa đã chán chường bạc bẽo thì phận nữ nhi chỉ biết ngậm ngùi ngóng chờ rồi lại thất vọng nặng nề.
Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ không chỉ bó gọn nội dung vào phạm vi kể về số phận đau đớn tủi nhục của người cung nữ bị ruồng bỏ mà sau nó còn là một hiện thực xã hội phong kiến bạc bẽo, tàn ác, xa đọa. Trong đoạn trích nhà thơ cũng sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật mà tiêu biểu là nghệ thuật miêu tả tâm lý sinh động và nghệ thuật đối lập để truyền tải nội dung đến người đọc.
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 9Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 8
Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) là nhà văn lớn của thế kỷ 18. Xuất thân từ một gia đình quý tộc thuộc dòng dõi chúa Trịnh, Nguyễn Gia Thiều tận mắt chứng kiến sự suy tàn, sụp đổ của chế độ phong kiến, cuộc sống xa hoa trụy lạc của vua chúa đương thời. Từ thực tế bi thương của những người cung nữ, Nguyễn Gia Thiều đã viết “Cung oán ngâm khúc”. Khúc ngâm 356 câu song thất lục bát là nỗi oán sầu ngút trời của người cung nữ, là tiếng lòng của thi nhân phản kháng lại chế độ cung tần tàn nhẫn trong chế độ phong kiến đương thời.
Đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” gồm 5 khổ thơ với 20 câu biểu hiện nỗi mong chờ vò võ, nỗi sầu thương oán hận của người cung phi bị ruồng bỏ. Vua chúa có hàng ngàn cung nữ. Có cung phi cả đời may mắn được một vài lần “chúa dấu vua yêu”, còn phần đông không được biết đến “ơn mưa móc” của vua chúa mà còn bị ruồng bỏ. Nguyễn Gia Thiều là một nghệ sĩ quý tộc, gần gũi và hiểu biết những người cung nữ. Ông thông cảm sâu sắc với nỗi bất hạnh của họ:
Lạnh lùng thay giấc cô miên!
Tranh biếng ngắm trong đồ tố nữ
Mặt buồn trông trôn cửa nghiêm lâu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa!”
Nỗi mong đợi một đôi chút “ơn mưa móc” của vua chúa với người cung nữ thật là cảm động:
“Ngày sáu khắc, tin mong nhạn vắng
Đêm năm canh, tiếng lắng chuông rền”
Không thể nói một cách đại lược là “ngày”, “đêm” người cung nữ mong đợi vua đến, mà phải nói “ngày sáu khắc”, “đêm năm canh”, vế đối này mới được trọn vẹn sự mong đợi vô vọng của người cung nữ. Nhà thơ sẽ phải nhập thân với cung nữ mới hiểu được tâm trạng “Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền”. Từng canh, người cung nữ lắng nghe bước chân “rồng” thì lại chỉ “lắng tiếng chuông rền” thật là buồn tê tái. Thi nhân phải thốt lên lời thương cảm cho kiếp cô đơn của người cung nữ:
“Lạnh lùng thay giấc cô miên!
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u”.
Đảo ngữ “lạnh lùng thay” càng làm nổi bật cảm giác lạnh của “giấc cô miên”, giấc ngủ cô đơn. Mà sao Nguyễn Gia Thiều có nỗi đồng cảm sâu xa với kiếp người bất hạnh như vậy? Nỗi thương cảm thật là nghệ sĩ, cảm được cái “tịch mịch” của mùi hương, cái “thâm u” của bóng đèn thì thế giới tâm linh của thi nhân thật đáng kính nể! Nỗi buồn trong lòng người cung nữ hiện ra cử chỉ, hiện ra nét mặt: “Tranh biếng ngắm trong đồ tố nữ Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu”. Trông chờ mòn mỏi nhà vua không đến, người cung nữ hướng về “cửa nghiêm lâu”, nơi vua ở mà buồn ra mặt. Cô đơn vẫn hoàn cô đơn:
“Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Nỗi buồn cứ tăng lên mãi, từ mong ngóng đến buồn tủi, sầu muộn. Biết cùng ai chia sẻ? “Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa”, “nguyệt”, “hoa” là biểu tượng của phụ nữ, cho nên “than với nguyệt” là than với chính mình, “rầu với hoa” cũng là rầu với chính mình. Nỗi cô đơn càng nhân lên. Phải thương kiếp hồng nhan lắm mới có những biểu hiện tài hoa như vậy! Thật là “sầu đong càng lắc càng đầy” (Kiều), nỗi buồn trông, sầu muộn đã thành “khắc khoải”, thành “ngẩn ngơ”, thành oán hận:
“Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải, Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ, Hoa này bướm nỡ thờ ơ, Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng!”
Cặp từ “hoa”, “bướm” ẩn dụ cho tình nhân thì thường, nhưng ẩn dụ cho cung nữ và vua thì lạ. “Hoa này…” là người cung nữ tự thấy mình có hương có sắc vậy mà vua “nỡ thờ ơ” không đoái hoài “để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng”!. Hình ảnh “gầy”, “xơ” thật là tội cho một kiếp hoa. Hình ảnh có tính chất miêu tả sự tàn phai của hoa mà cũng là của kiếp hồng nhan. Nhịp điệu thơ đay nghiến, trách móc, oán giận.
Cái buồn này ai dễ giết nhau?
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa?”
Đến đây, người cung nữ đã sụp đổ hoàn toàn cả tinh thần lẫn thể xác. Người cung nữ không còn “đứng tủi ngồi sầu” nữa mà “lần nương vách quế” thật là tội nghiệp. Nhà thơ đã nổi giận bằng một loạt câu hỏi tu từ, “Cái buồn này ai dễ giết nhau?”, “Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa?”. Nhà thơ không còn giữ khoảng cách để miêu tả tình cảm tâm trạng của cung nữ mà nhập cuộc, trực tiếp lên tiếng đầy căm giận chế độ cung tần tàn nhẫn. Ba câu thơ điệp lại ba từ “giết nhau” đay nghiến những kẻ đã tạo ra cái chết cả thể xác lẫn tinh thần của những cung phi, những người đẹp bất hạnh. Nguyễn Gia Thiều hiển hiện là một trí thức uyên bác, giàu lòng nhân ái, mà lại duy lí trong những câu thơ lạnh, sắc:
“Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Rồi nhà thơ lại trở lại với tâm trạng oán trách phẫn nộ của người cung nữ:
“Tay Nguyệt lão chẳng xe thì chớ
Đang tay muốn dứt tơ hồng
“Nguyệt lão” thật là đáng trách “Xe thế này có dở dang không?” Từ “dở dang” đã gói gọn trọn cuộc đời bi thảm của cung nữ. Vua yêu thì là may, mà được mấy cung nữ “chúa dấu vua yêu?” Rồi bị ruồng bỏ thật là thê thảm, quãng đời còn lại sống như một con vật đã “tế thần”, mà đâu phải là con vật, đây là những con người, người đẹp vào hàng quốc sắc vậy mà khi vua ruồng bỏ rồi thì bị cấm kị hạnh phúc lứa đôi cho đến già, đến chết, “dở dang” chưa, “độc” chưa? Từ trách móc oán hận người cung nữ phẫn uất:
“Đang tay muốn dứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”.
Theo điển cố xưa, “Nguyệt lão” có dây tơ hồng xe duyên cho những cặp vợ chồng, đó là sợi dây tơ hồng của tình ái, của hạnh phúc lứa đôi. Còn dây tơ hồng mà “Nguyệt lão” xe người đẹp với vua chúa đã thành sợi dây oan nghiệt. Trong nỗi đau khổ tuyệt vọng, người cung nữ muốn “dứt tơ hồng”, sợi dây vô hình mà oan trái, độc địa! Nàng muốn phá tung sự giam hãm bi thảm này:
“Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”
Những động từ “dứt”, “đạp” thật là mạnh mẽ, nhưng là những hành động của tâm trạng, chứ chưa phải là hành động của thực tế. Những hành động của ước muốn ấy càng cho thấy sự tàn nhẫn của chế độ cung tần và sự bi thảm của kiếp người cung phi.
Nguyễn Gia Thiều là một trí thức quý tộc, ông được hưởng nhiều ân sủng của nhà chúa, nhưng ông lại có trái tim nghệ sĩ, có lòng nhân đạo cao cả. Ông sống gần gũi với các bậc đế vương và gần gũi với nạn nhân của các bậc đế vương. Ông thương yêu, đồng cảm với những người cung nữ bất hạnh và phản kháng chế độ cung tần thối nát, tàn nhẫn. Chỉ một đoạn trích “Cung oán ngâm khúc”, ta cũng nhận ra tài hoa và tâm hồn lớn của Nguyễn Gia Thiều. Thể thơ song thất lục bát hợp với hình thức “Ngâm”, nhưng không quá du dương như “Chinh phụ ngâm”, mà sắc sảo, nặng lí trí, uyên bác. Nhà thơ đã thể hiện quá trình phát triển tâm trạng của người cung nữ, từ mong chờ sầu muộn đến ngán ngẩm ê chề đến đay nghiến, căm hận, phẫn uất. Khúc ngâm có sự hài hòa tuyệt vời giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, giữa hình ảnh và nhạc điệu, giữa trữ tình và triết lí. “Cung oán ngâm khúc” là tác phẩm thiên tài của Nguyễn Gia Thiều vì đấy là đỉnh cao của ngôn ngữ, của trí tuệ và của tinh thần nhân văn
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 6Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 9
Nguyễn Gia Thiều sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộ, được cậu là chúa Trịnh cho vào cung ăn học. Khi lớn lên làm quan ở phủ chúa,ông có cơ hội chứng kiến những thói ăn chơi hưởng lạc, hoang dâm vô độ của vua chúa, đặc biệt là những bất công đối với thân phận của những người cung nữ. Hoàn cảnh và lòng nhân đạo đã khiến ông viết nên “ Cung oán ngâm” – một trong những tiếng vang lớn của tư tưởng nhân đạo, của tiếng nói đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc cho con người thời bấy giờ.
“Cung oán ngâm” là bài ca ai oán của người cung nữ có tài sắc, trước được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu bị ruồng bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc. Qua khúc ngâm, tác giả còn gửi gắm quan niệm của ông về cuộc đời bạc bẽo phù du. Cả khúc ngâm dài 356 câu với ngôn ngữ tài hoa, đài các, có nhiều chữ Hán và điển cố thể hiện nghệ thuật biểu đạt rất phong phú, già dặn, ảnh hưởng tới các nhà thơ đời sau. Đoạn trích gồm 36 câu ( từ câu 209 đến câu 244) đã thể hiện rõ nhất tinh thàn của cả tác phẩm.
4 khổ đầu là tâm trạng người cung nữ được khắc họa trong hoàn cảnh bị nhà vua ruồng bỏ. Không gian là cung quế- nơi người cung nữ ở, đoạn tuyệt hoàn toàn với cuộc sống bên ngoài. Không gian cô lẻ cùng thời gian đêm khyua càng khiến không khí trở nên vắng vẻ, lạnh lẽo hơn. Hơn nữa, thời gian đêm năm canh phù hợp cho nhân vật bộc lộ tâm trạng của mình. Đó còn là thời điểm của niềm hi vọng hạnh phúc hòa cùng nỗi tuyệt vọng nơi cô phòng mà ngày nào đêm nào cũng phải đối mặt. Trong tối tăm, ngườ cung nữ ấy vẫn “ trông ngóng lần lần”, khôn nguôi chờ đợi nhưng thực chất là đang chờ đợi một cái gì đó xa vời, nhưng biết là xa vời mà vẫn khôn nguôi hi vọng. Hi vọng nhiều thì tuyệt vọng càng nhiều, nghĩ lại tình cảnh của mình, nỗi xót xa trào lên, bật ra thành lời oán trách:
Lời trách, lời than ấy đã vạch trần bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn của vua. Giọng điệu câu thơ như đay nghiến, trách cứ, nó thấm thía nỗi xót xa của nhân vật trữ tình: khi còn xuân sắc thì được yêu chiều nhưng khi nhan sắc tàn phai thì lại bị bỏ rơi, thê thảm. Các câu thơ càng nhấn mạnh vào sự xa hoa vẻ bề ngoài của cuộc sống nơi cung cấm đối lập với không khí lạnh lẽo, sự tồi tàn, héo úa về tih thần của cuộc sống nơi đây. Tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt: “ đãi nguyệt, thừa lương, phòng tiêu,…” vẽ ra trước mắt chúng ta nào lầu son nào gác tía, một cuộc sống xa hoa quyền quý nơi cung cấm. Bên cạnh lớp từ Hán Việt là hệ thống ngôn ngữ nôm na, giàu giá trị biểu cảm , khắc họa chân thực tình cảnh người cung nữ đang phải trải qua: xa hoa quyền quý đã không còn là niềm vui sống mà cô mong đợi.
Đến những câu thơ tiếp theo cảm xúc tâm trạng càng diễn biến theo chiều hướng bi kịch hơn, càng lúc càng não nề, bi đát. Lạnh lẽo, cô đơn ngay cả trong giấc ngủ, nàng vẫn cảm nhận được sự “tịch mịch, thâm u”, càng thêm thất vọng vì tuổi xuân đã bị khóa chặt vào với sự tẻ nhạt, tù túng, u ẩm, nặng nề, đen tối. Nỗi đau, nỗi khát khao khó được đền đáp khiến con người ta mòn mỏi chờ đợi, sự mỏi mòn thậm chí còn rơi vào cõi vô thức: “Mặt buồn trông cửa nghiêm lâu”, “đứng tủi ngồi sầu”, gieo từng bước ngẩn ngơ vô định mà trong lòng khắc khoải, trăm mối tơ vò. Khi buồn thương càng trở nên quằn quại, tiếc nuối, khi hy vọng càng lúc càng mong manh, câu thơ lại chuyển thành giọng điệu trách móc:
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng!”
“Giết nhau chẳng cái mưu cầu
Giết nhau bằng cái sầu độc chưa!”
Và cuối cùng, mọi uất hận u sầu đã dồn tụ lại bật lên thành mong muốn bứt phá, khát khao vượt qua chốn tối tăm, lạnh lẽo, ảm đạm:
“Đang tay muốn dứt tơ Hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.”
Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã thể hiện rõ số phận của người phụ nữa đương thời, đặc biệt dưới chệ độ cung nữ. Đó là những số phận bị bỏ quên , bị khóa kín tuổi xuân trong cung cấm ngột ngạt, tù túng. Họ luôn khao khát tình yêu, hạnh phúc nhưng càng khao khát càng rơi vào bế tắc, tuyệt vọng. Tiếng nói than thân, trách móc của người cung nữ đã trở thành tiếng nói tố cáo mạnh mẽ xã hội với sự xuống cấp trầm trọng của những giá trị đạo đức , với chế độ cung nữ hà khắc…
Đoạn trích đã thể hiện tập trung được tất cả tư tưởng của tác phẩm. “ Cung oán ngâm.” đã phản chiếu hình ảnh của con người và gương mặt văn học đương thời.
Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” số 6
Chỉ một đoạn trích “Cung oán ngâm khúc”, ta cũng nhận ra tài hoa và tâm hồn lớn của Nguyễn Gia Thiều. Thể thơ song thất lục bát hợp với hình thức “Ngâm”, nhưng không quá du dương như “Chinh phụ ngâm”, mà sắc sảo, nặng lí trí, uyên bác. Nhà thơ đã thể hiện quá trình phát triển tâm trạng của người cung nữ, từ mong chờ sầu muộn đến ngán ngẩm ê chề đến đay nghiến, căm hận, phẫn uất. Khúc ngâm có sự hài hòa tuyệt vời giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, giữa hình ảnh và nhạc điệu, giữa trữ tình và triết lí.
Đăng bởi: Lâm Nguyễn Đình Ngân
Từ khoá: 10 Bài văn phân tích đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” (Ngữ văn 10) hay nhất
Cập nhật thông tin chi tiết về 6 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật Cai Lệ Trong Đoạn Trích “Tức Nước Vỡ Bờ” Của Ngô Tất Tố trên website Vxsc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!